top of page
  • Hướng nhìn lên Chúa Giê-su, Đấng hiền lành và khiêm nhường trong lòng.

 

Trong khi suy niệm các Mối Phúc, cụ thể Mối Phúc về hiền lành, chúng ta không chỉ dừng lại ở con người và cuộc sống mình, mà chúng ta hướng nhìn lên Chúa Giê-su, để khám phá những nét hiền lành và khiêm nhường trong chân dung đặc biệt của Ngài. Thật vậy, các Mối Phúc như là bức chân dung mà Chúa Giê-su tự hoạ (self-portrait). Trong bức chân dung của Chúa, nét hiền lành nổi bật một cách sống động. Chính Ngài đã mời gọi chúng ta đến với Ngài để học, để chiêm ngắm Đấng hiền lành và khiêm nhường trong lòng, và qua đó để thấm nhuần tinh thần của Ngài, và sống tinh thần đó trong đời sống thường ngày.

 

- Chúa Giê-su, Đấng hiền lành và khiêm nhường trong lòng.

 

Nét hiền lành và khiêm nhường của Chúa Giê-su trải dài trong cuộc sống dương thế của Chúa. Các Phúc Âm đều diễn tả về điều này. Thánh Mát-thêu đã dựa vào tiên tri I-sai-a (42,2-3), để diễn tả một cách sống động về hình ảnh Người Tôi Trung hiền lành và khiêm nhường: “Đây là người Tôi Trung Ta đã tuyển chọn, đây là người Ta yêu dấu: Ta hài lòng về Người. Ta cho Thần Khí Ta ngự trên Người. Người sẽ loan báo công lý trước muôn dân. Người sẽ không cãi vã, không kêu to, chẳng ai nghe thấy Người lên tiếng giữa phố phường. Cây lau bị giập, Người không đành bẻ gãy, tim đèn leo lét, chẳng nỡ tắt đi, cho đến khi Người đưa công lý đến toàn thắng, và muôn dân đặt niềm hy vọng nơi danh Người” (Mt 12,18-20). Là Người Tôi Trung, Chúa Giê-su đã đón nhận một sứ mạng lớn lao. Sứ mạng này Ngài thực hiện với tinh thần hiền lành và khiêm nhường.

Đọc lại toàn bộ Bài Giảng Trên Núi trong Phúc Âm thánh Mát-thêu, những gì Chúa Giê-su loan báo và mời gọi, đều mang tinh thần hiền lành và khiêm nhường. “Anh em đã nghe Luật dạy người xưa rằng: Chớ giết người; ai giết người, thì đáng bị đưa ra toà. Còn Thầy, Thầy bảo cho anh em biết: Ai giận anh em mình, thì đáng bị đưa ra toà. Ai mắng anh em mình là đồ ngốc, thì đáng bị đưa ra trước Thượng Hội Đồng. Còn ai chửi anh em mình là quân phản đạo, thì đáng bị lửa hoả ngục thiêu đốt. Vậy, nếu khi anh sắp dâng lễ vật trước bàn thờ, mà sực nhớ có người anh em đang có chuyện bất bình với anh, thì hãy để của lễ lại đó trước bàn thờ, đi làm hoà với người anh em ấy đã, rồi trở lại dâng lễ vật của mình. Anh hãy mau mau dàn xếp với đối phương, khi còn đang trên đường đi với người ấy tới cửa công, kẻo người ấy nộp anh cho quan toà, quan toà lại giao anh cho thuộc hạ, và anh sẽ bị tống ngục. Thầy bảo thật cho anh biết: anh sẽ không ra khỏi đó, trước khi trả hết đồng xu cuối cùng” (Mt 5,21-26).  Không giết người, không giận hờn, không mắng chửi người khác, và luôn sống tinh thần tha thứ. Tất cả những điều Chúa nói đều thuộc về bản chất của người hiền lành và khiêm nhường.

Không chỉ dừng nơi đó, Chúa Giê-su còn chỉ ra cách thức ứng xử cần thiết đối với kẻ thù: “Anh em đã nghe Luật dạy rằng: Mắt đền mắt, răng đền răng. Còn Thầy, Thầy bảo anh em: đừng chống cự người ác, trái lại, nếu bị ai vả má bên phải, thì hãy giơ cả má bên trái ra nữa. Nếu ai muốn kiện anh để lấy áo trong của anh, thì hãy để cho nó lấy cả áo ngoài. Nếu có người bắt anh đi một dặm, thì hãy đi với người ấy hai dặm. Ai xin, thì hãy cho; ai muốn vay mượn, thì đừng ngoảnh mặt đi” (Mt 5,38-42). Không chống cự người ác, không ứng xử theo kiểu đời “mắt đền mắt, răng đền răng”, ngược lại luôn nhường nhịn và đôi khi cần hy sinh, dù cho phải bị thiệt thòi. Đó chính là tinh thần hiền lành của Chúa. Chúa còn đi xa hơn nữa, khi Ngài nói: “Anh em đã nghe Luật dạy rằng: Hãy yêu đồng loại và hãy ghét kẻ thù. Còn Thầy, Thầy bảo anh em: hãy yêu kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi anh em” (Mt 5,43-44). Yêu kẻ thù và cầu nguyện cho kẻ thù. Một tinh thần trái ngược với cuộc đời luôn cố gắng để trả đũa, luôn tìm cách để trả thù cho hả giận. Chỉ đọc lại một số điều đó, chúng ta đã thấy tinh thần hiền lành mà Chúa mời gọi thật là một thách đố lớn. Chắc chắn, thật khó để thực hiện. Với sức con người, có lẽ chúng ta không bao giờ có thể sống trọn vẹn tinh thần hiền lành. Tuy nhiên, chúng ta có Chúa đã đi trước chúng ta. Tất cả những gì Ngài giảng dạy đều được Ngài thực hiện trong cuộc sống.

 

- Lời giảng và đời sống của Đấng hiền lành không bao giờ mâu thuẫn với nhau.

 

Khi chiêm ngắm Chúa Giê-su trên đường thương khó và ngắm nhìn Ngài bị đóng đinh trên Thánh Giá, chúng ta thấy Chúa Giê-su hiền lành và khiêm nhường đâu chống cự lại sự bắt bớ, đâu tìm vũ lực để trả đũa bạo lực. Chúa đã nói rõ ràng với người môn đệ đã dùng gươm để chống cự lại nhóm người đi bắt Chúa: “Hãy xỏ gươm vào vỏ, vì tất cả những ai cầm gươm sẽ chết vì gươm” (Mt 26,51). Khi bị kết án một cách bất công, Chúa đâu có biện minh và bào chữa. Người im lặng trước những lời kết án bất nhân, sự im lặng của con chiên hiền lành bị đem đi giết. Đọc lại cuộc thương khó của Chúa trong các Phúc Âm, chúng ta thấy rằng, Chúa rất ít khi nói. Đúng hơn, Ngài chỉ nói những gì cần nói. Thật vậy, sự im lặng là một trong những nét đặc biệt trong cuộc thương khó của Chúa.

Trong bối cảnh Chúa chịu đóng đinh đau đớn trên Thánh Giá, các thánh sử đã thuật lại bảy di ngôn của Chúa. Di ngôn đầu tiên được Lu-ca nhắc tới: “Lạy Cha, xin tha cho chúng, vì chúng không biết việc chúng đang làm” (Lc 23,34). Chúa nói lời này trong bối cảnh quân lính dẫn Chúa Giê-su tới Đồi Sọ, và chúng đóng đinh Ngài vào Thánh Giá. Với Ngài cũng có hai tên gian phi cùng bị đóng đinh, một tên bên trái và một tên bên phải (x.Lc 23,33-34). Chúa Giê-su chẳng có tội tình gì, lại bị đóng đinh giữa hai tên gian phi, hai tội nhân bị kết án tử. Điều này diễn tả về sự nhục nhã hết sức mà Chúa Giê-su phải chịu, nhưng đó là số phận của Người Tôi Trung“đã hiến thân chịu chết, đã bị liệt vào hàng tội nhân” (Is 53,12). Nếu chúng ta lắng nghe cả bài thương khó của Lu-ca, sẽ thấy Chúa đã nhắc lại sấm ngôn này cho các môn đệ, khi ở trên đường từ Bữa Tiệc Ly đến vườn Ô-liu: “Vì Thầy bảo cho anh em hay: cần phải ứng nghiệm nơi bản thân Thầy lời Thánh Kinh đã chép: Người bị liệt vào hàng phạm pháp. Thật vậy, những gì đã chép về Thầy sắp được hoàn tất” (Lc 22,37).

 

Chúa Giê-su bị liệt vào hàng phạm pháp. Nhưng tội gì? Không ai tìm thấy tội tình gì nơi Ngài để kết án được. Là nạn nhân của sự thù hằn của những người có thế giá trong xã hội và tôn giáo thời đó, Chúa đã bị đẩy vào mảnh đất đầy sỉ nhục và phải đón nhận án tử từ đám đông dân chúng, với sự hậu thuẫn và xúi giục của nhóm người có thế giá. Một mạng lưới bất nhân đã được dệt lên, để bắt cho được kẻ thù không đội trời chung, dù kẻ thù đó là một người vô tội, hiền lành, khiêm nhường và tốt lành. Theo lẽ thường tình, Con Người hiền lành này cần được trân trọng và yêu quý, nhưng thực tế trên đồi sọ hoàn toàn khác hẳn.

Thập giá trên đồi sọ, Chúa Giê-su bị đóng đinh treo lơ lửng trên đó. Con Thiên Chúa xuống thế làm người ngay từ ngày đầu tiên khi chào đời đã ở trong cảnh nghèo nàn của nhân loại, và khi chết đi cũng ở trong cảnh thê lương của nhân loại. Là Đấng hiền lành và khiêm nhường, Ngài sẵn sàng đón nhận tất cả. Sự đón nhận của tình yêu và lời xin vâng. Vâng theo ý Cha một cách triệt để, đến nỗi bằng lòng chết đi và chết trên cây thập tự. Cái chết trên cây thập tự là một cái chết nhục nhã, chỉ dành cho những kẻ gây ra tội ác. Cái chết đó không ai muốn chọn cả. Còn Chúa, dù biết là đau đớn, nhục nhã và bất công, nhưng Chúa vẫn không chạy chốn thập giá trên đồi cao kia. Chân tay Ngài sẵn sàng dang ra, để người ta đóng đinh Ngài trên thập giá, thập giá đứng sừng sững trên đồi cao. Trong cơn đau đớn tột cùng của thân xác và của tâm hồn, đối diện với những đám lính vừa đóng đinh Ngài, và trong sự hiện diện của đám đông đi theo Ngài trên đường thương khó, Chúa Giê-su hiền lành và khiêm nhường lên tiếng: Lạy Cha, xin tha cho chúng, vì chúng không biết việc chúng đang làm. Đó là lời cầu nguyện của Ngài tương hợp hoàn toàn với lời Ngài dạy dỗ hãy yêu kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi anh em.

 

Đọc lại lần nữa lời cầu nguyện của Chúa xin Cha trên trời tha thứ cho những kẻ ngược đãi Chúa, chúng ta ngạc nhiên thấy rằng, Chúa Giê-su hiền lành và khiêm nhường không cầu nguyện để xin Cha ra tay công bằng xử phạt những kẻ bất nhân hãm hại Ngài, mà Ngài cầu nguyện với Cha, để xin Cha tha thứ cho họ. Đó chính là lô-gic của Đấng hiền lành và khiêm nhường trong lòng, Đấng đang sống tình yêu Thiên Chúa giữa lòng thế giới. Lô-gic này ngược hẳn với tất cả mọi lô-gic của cuộc đời. Đúng thật, sự khôn ngoan của con người không phải là sự khôn ngoan của Thiên Chúa. Ý nghĩ của Thiên Chúa không phải là ý nghĩ của loài người. May thay!

 

Tha cho họ. Vậy họ là ai? Họ chính là những tên lính La Mã, những người làm theo lệnh của Phi-la-tô đóng đinh Chúa Giê-su cho đến chết. Họ chỉ làm theo mệnh lệnh, nhưng những lời chế nhạo, những đòn roi đã thể hiện sự tàn bạo, sự hung tợn trong chính họ. Họ còn là những đám đông dân chúng bị lầm lạc, bị mê hoặc, những kẻ ấy đã bắt Chúa Giê-su phải chết và ép buộc Phi-la-tô giết Ngài. Bọn người ấy chỉ vài ngày trước đã tung hô Chúa Giê-su là Vua, vị Vua hiền lành và khiêm nhường, đang cưỡi lừa để vào thành Thánh Giê-ru-salem (x.Mt 21,5), nhưng giờ đây họ dã tâm giết Chúa trên thập giá. Thật tàn bạo, thật khủng khiếp và thật bất công! Nhưng tất cả mọi sự xấu xa đó không cản bước chân của Đấng Cứu Độ, không làm cho bản chất của Đấng Cứu Độ hiền lành và khiêm nhường bị thay đổi. Bản chất đó là tình yêu tràn đầy sự hiền lành, khiêm tốn và luôn sẵn sàng thứ tha mà Chúa Giê-su đã loan báo. Về điều này, Đức Thánh Cha Benedicto XVI đã suy niệm: “Điều mà Chúa đã rao giảng trong Bài Giảng Trên Núi, Ngài đã thực hiện cách trọn vẹn. Chúa không biết ghen ghét là gì. Ngài không bao giờ hận thù cả. Ngài đã cầu nguyện cho kẻ đóng đinh Ngài.”[i] Và “lời cầu nguyện đầu tiên của Chúa Giê-su với Chúa Cha là lời cầu bầu, xin tha thứ cho những lý hình của Người. Với lời này, Chúa Giê-su thực hiện điều mà chính Người đã dạy trong Bài Giảng Trên Núi, khi Người nói: ‘Nhưng Thầy bảo các con là những người đang nghe Thầy đây, hãy yêu kẻ thù và làm ơn cho những người ghét các con’ (Lc 6,27), và Người cũng đã hứa với những người có thể tha thứ rằng ‘Phần thưởng của các con sẽ thật lớn lao, và các con sẽ là con cái Ðấng Tối Cao’ (c. 35). Bây giờ, từ trên Thánh Giá, Người không những chỉ tha thứ cho những kẻ hành quyết Người, mà còn trực tiếp thưa với Chúa Cha để cầu bầu cho họ”.[ii]

 

Một di ngôn khác của Chúa Giê-su trên Thánh Giá cũng nêu bật được tinh thần hiền lành và khiêm nhường của Ngài. “Hôm nay anh sẽ được ở với Ta trong thiên đàng” (Lc 23,43). Lời này nằm trong mạch văn nói về hai người gian phi cùng bị đóng đinh với Chúa, một trong hai người truyền thống gọi là latro poenitens – kẻ trộm ăn năn, và người Công Giáo còn gọi là người trộm lành (x.Lc 23,39-43). Trong bối cảnh đó, người tử tội bên trái đã lên tiếng sỉ nhục và thách thức Chúa: “Ông không phải là Đấng Ki-tô sao? Hãy tự cứu mình đi, và cứu cả chúng tôi với” (Lc 23,39). Còn người tử tội thứ hai là người trộm lành có thái độ hoàn toàn khác. Trước hết anh ta lên tiếng mắng người trộm ở bên trái kia: “Mày đang chịu chung một hình phạt, vậy mà cả Thiên Chúa, mày cũng không biết sợ! Chúng ta chịu như thế này là đích đáng, vì xứng với việc đã làm. Chứ ông này đâu có làm điều gì trái!” (Lc 23,40-41). Sau đó, với tâm tình kính sợ Thiên Chúa, cùng lòng thống hối ăn năn, anh trộm lành đã xin Chúa Giê-su: “Ông Giê-su ơi, khi ông vào Nước của ông, xin nhớ đến tôi!” (Lc 23,42). Ở đây, chúng ta có thể hỏi tại sao người trộm lành lại nhắc đến Nước hay Vương Quốc của Ngài? Phải chăng anh ta thốt lên như vậy, bởi vì anh ta tin vào cái bảng mà người ta treo trên Thập giá của Chúa Giê-su: “Đây là Vua người Do Thái” (Lc 23,38).[iii] Những hàng chữ đó với các người bắt bớ Chúa là bản án dành cho Chúa mang đầy tính giễu cợt và sỉ nhục, nhưng với người trộm lành có đôi mắt sáng, tấm bảng đó diễn tả một sự thật mà con người có nhận ra hay không, thì sự thật vẫn thế. Sự thật nêu bật quyền Vương Đế của Chúa Giê-su, vị Vua trên hết các Vua, vị Vua hiền lành và khiêm nhường trong lòng. “Rõ ràng người trộm lành tại cây thập giá đã nhận ra rằng, người bất lực kia là Vua thật, vị Vua mà dân Ít-ra-en đang trông đợi, và ở kế bên anh Ngài không chỉ đứng trên thập giá, mà Ngài còn đứng trong vinh quang nữa”.[iv]

Thật vậy, con người có muốn giễu cợt hay con người muốn công nhận sự thật về Vương Đế của Chúa Giê-su, thì lời của con người không bao giờ vượt trên sự khôn ngoan của Thiên Chúa. Cuộc chơi con người đưa ra luôn nằm ở trong vũ trụ và sự kiểm soát của Thiên Chúa. Chúa Giê-su, Đấng hiền lành và khiêm nhường, là Vua người Do Thái, những hàng chữ này đã được chính con người, dù với dụng ý xấu xa, công bố cách công khai trên thập giá, để tất cả mọi người đều thấy. Thật tuyệt vời! “Chúa Giê-su đã được nâng cao. Thánh Giá là ngôi Vua của Chúa, và từ ngôi Vua là Thánh Giá đó, Chúa kéo thế giới lại với Ngài. Từ nơi này, nơi mà Ngài tự hiến dâng chính mình, từ nơi này, nơi tình yêu thực sự của Thiên Chúa hiện diện, Chúa đang trị vì như vị Vua đích thật. Ngài trị vì theo cách thức của Ngài, cách thức đó Phi-la-tô và những nhân vật thế giá trong Thượng Hội Đồng không thể hiểu được”.[v]

Đó là cách thức của vị Vua hiền lành, khiêm nhường và tràn đầy tình yêu. Ngài sẵn sàng mở lời với những người trông cậy vào Ngài: “Thật, Tôi bảo anh, hôm nay, anh sẽ được ở cùng Tôi trên Thiên Ðàng”. Câu trả lời của Chúa vượt xa điều anh trộm lành cầu xin. Lời của Chúa nói với người trộm lành mở cho anh một cuộc sống mới, cuộc sống ở cùng Chúa. Đó là một hồng ân rất tuyệt vời. Từ thân phận bất xứng của kẻ tội lỗi, anh được Chúa hiền lành tha thứ và dọn cho anh một chỗ ở bên Ngài. Tâm tình này liên hệ đến hình ảnh của người Mục Tử nhân lành trong Thánh Kinh, và đặc biệt nơi Chúa Giê-su, Đấng hiền lành và khiêm nhường.

 

Hình ảnh Mục Tử hiền lành và nhân hậu quen thuộc đối với người Do Thái, diễn tả sống động hình ảnh Thiên Chúa là Mục Tử đầy lòng nhân hậu và yêu thương dân của Ngài, đặc biệt dành cho những người lầm đường lạc lối. Chúa yêu thương chúng ta, đến nỗi Chúa là người Mục Tử chạy theo từng bước chân sai lạc của chúng ta, để đưa chúng ta trở về. Đức Benedicto XVI đã diễn tả điều này thật sâu sắc trong Thông Điệp đầu tiên Thiên Chúa là Tình Yêu – Deus Caritas Est: “Hành động này của Thiên Chúa mang lấy hình thức bi thảm trong sự kiện, chính Thiên Chúa trong Đức Giê-su Ki-tô chạy theo ‘con chiên bị thất lạc’, chạy theo nhân loại đau khổ và bị tiêu vong. Khi Đức Giê-su trong các dụ ngôn nói về người mục tử chạy theo con chiên bị lạc mất, về người đàn bà đi tìm đồng bạc bị đánh rơi, về người cha chạy đến người con đi hoang và ôm nó vào lòng, thì đấy không chỉ là những lời nói, nhưng là những cách giải thích bản chất và hành động của chính Người. Trong cái chết thập tự của Người, việc ‘Thiên Chúa quay lại chống đối chính mình’ đạt đến mức tuyệt đỉnh, khi Người tự hiến chính mình, để nâng con người lên và cứu độ họ - đó là tình yêu trong hình thức triệt để nhất. Cái nhìn vào cạnh sườn bị đâm thâu của Đức Giê-su mà thánh Gio-an nói đến (x.Ga 19,37) giúp chúng ta hiểu khởi điểm của thông điệp này Thiên Chúa là tình yêu (1Ga 4,8). Nơi đó, chân lý này có thể được nhìn ngắm. Và cũng từ đó có thể định nghĩa tình yêu là gì. Từ cái nhìn này, người Ki-tô hữu tìm được con đường để sống và để yêu”. (Số 12).[vi]

Con đường sống trong tình yêu của người Ki-tô hữu là con đường được Chúa Giê-su hiền lành và khiêm nhường yêu thương ấp ủ, chính Ngài khi đã tìm lại chiên lạc lối, thì sẽ đưa chiên của Ngài đến một nơi thật tuyệt vời, với đồng cỏ xanh tươi, với dòng nước trong lành, để bồi bổ và để tận hưởng niềm vui của tình yêu, niềm vui của niềm tin vào Chúa, Đấng hiền lành và khiêm nhường và là Mục Tử nhân hậu, như Thánh Vịnh gia diễn tả:

 

“Trong đồng cỏ xanh tươi, Người cho tôi nằm nghỉ.
Người đưa tôi tới dòng nước trong lành và bổ sức cho tôi” (Tv 23,2-3a).

 

Được Chúa hiền lành cho nằm nghỉ êm ấm trên đồng cỏ xanh, và được Ngài cho uống dòng nước trong lành, thì còn gì tuyệt vời hơn. Nơi đó chính là mảnh đất hứa, nơi đó con cái Chúa được lòng nhân hậu và tình thương của Ngài ấp ủ, nơi đó con cái Chúa tận hưởng tình yêu được ở trong nhà Cha, ở trong đền Ngài mãi mãi. Đó chính là hạnh phúc mà Thánh Vịnh gia nhận ra, và kể lại cho mọi người kinh nghiệm về hạnh phúc được ở cùng Chúa:

 

“Lòng nhân hậu và tình thương CHÚA
ấp ủ tôi suốt cả cuộc đời,
và tôi được ở đền Người
những ngày tháng, những năm dài triền miên” (Tv 23,6).

 

Cả một cuộc đời được tình thương Chúa ấp ủ. Ngày tháng năm dài được sống trong đền Chúa. Đó là hạnh phúc thiên đàng mà có lẽ ai ai cũng ao ước. Dù cuộc đời hôm nay có rao bán nhiều thứ hạnh phúc khác nhau, hạnh phúc hưởng thụ vật chất với một đời sống tiện nghi sung túc, hưởng thụ thoả mãn những lạc thú của cuộc đời, hạnh phúc đạt được những danh vọng và quyền lực đưa con người lên đỉnh cao, trở thành trung tâm điểm của cuộc sống, thì những thứ hạnh phúc đó không bao giờ tồn tại vĩnh viễn được. Những thứ hạnh phúc đó mỏng manh như phận người mỏng dòn, những hạnh phúc đó mau chóng tàn phai như đời người có thể sáng nở tươi nhưng tối tàn phai mà chẳng ngờ được. Những thứ hạnh phúc con người tự tạo nên đều giới hạn như đời người nhiều lắm là 100 cái xuân xanh. Cuối cùng, chỉ có hạnh phúc được ở cùng Chúa, được sống trong vòng tay ấp ủ của Người Mục Tử nhân hậu, được ở kề bên lòng Chúa, Đấng hiền lành và khiêm nhường, mới tồn tại vĩnh viễn. Và không có sức mạnh nào, kể cả cái chết có thể lấy mất đi hạnh phúc đó. Vì thế, người trộm lành được diễm phúc đón nhận hạnh phúc cao quý này, đó là hồng ân tuyệt vời của tình yêu vô điều kiện mà Chúa Giê-su, Đấng hiền lành và khiêm nhường, đã ban tặng cho anh. Hiệp với người trộm lành hạnh phúc, chúng ta có thể mượn lời của Thánh Vịnh gia thốt lên rằng:

 

“Còn hạnh phúc của con là ở kề bên Chúa,
chốn ẩn thân đặt ở Chúa Trời” (Tv 73,28).

 

Ở với Chúa, ở kề bên Chúa và được ở trong Thiên Đàng với Chúa, đó là hạnh phúc tuyệt đỉnh mà Đấng hiền lành khiêm nhường và đầy lòng nhân hậu tặng ban. Lời của Chúa Giê-su nói với anh trộm lành xa lạ thật là đẹp biết bao. Đó là sứ điệp hiền lành, nhân hậu và tràn đầy ơn cứu rỗi của Ngài muốn gởi tới tất cả những ai, dù quá khứ của họ thế nào, nếu họ biết khiêm tốn, ăn năn và hướng về Chúa để cầu xin, thì đều được Chúa đón nhận. Và để khám phá sâu hơn về tinh thần hiền lành khiêm nhường và nhân hậu của Chúa, chúng ta lật tiếp các trang Tin Mừng.

 

Trong các trang Tin Mừng, chúng ta nhận ra được tinh thần hiền lành, lòng nhân từ và tha thứ của Chúa Giê-ru rất rõ nét, như trong những cuộc gặp gỡ của Ngài với những người tội lỗi. Hình ảnh của người phụ nữ tội lỗi nổi tiếng trong thành mà Lu-ca nhắc đến là một điển hình (x.Lc 7,36-50). Một cuộc gặp gỡ thật đặc biệt giữa lòng nhân từ hay tha thứ của Chúa với thân phận tội lỗi, nhưng chất chứa lòng ăn năn sâu thẳm của người phụ nữ. Một cuộc gặp gỡ khác là giữa Đức Ki-tô và người phụ nữ bị kết án vì tội lỗi. Bối cảnh và tình tiết của câu chuyện được Gio-an diễn tả thật đặc sắc (x.Ga 8,2-11). Người ta đưa một phụ nữ bị bắt phạm tội ngoại tình đến với Chúa, để gài bẫy Ngài, bằng cách bắt Ngài phải kết án tử chị ta. Phần tiếp của câu chuyện, mọi người Ki-tô hữu đều biết. Có một nét thật đặc biệt: Người lớn tuổi nhất phải bỏ đi sớm nhất, khi Chúa nói với họ: “Ai trong các ông sạch tội, thì cứ việc lấy đá mà ném trước đi”. Cuối cùng, câu chuyện có một lời kết rất tuyệt vời của Chúa Giê-su, Đấng hiền lành và khiêm nhường, nói với người phụ nữ tội lỗi: “Tôi cũng vậy, tôi không lên án chị đâu! Thôi chị cứ về đi, và từ nay đừng phạm tội nữa!”. Với tinh thần hiền lành khiêm nhường và lòng nhân từ, Chúa Giê-su đã lên tiếng tha thứ và đem lại sức sống mới cho một phận người tội lỗi. Một sức sống mới cần phải đoạn tuyệt với tội lỗi, một sức sống mới tràn đầy tự do, niềm vui và hạnh phúc.

Khuôn mặt của Chúa Giê-su, Đấng hiền lành khiêm nhường và đầy nhân hậu trải dài trong các trang Tin Mừng. Mỗi lời Ngài nói, mỗi việc Ngài làm, và mỗi cuộc gặp gỡ với người khác đều nêu bật tinh thần nhân hậu, hiền lành và khiêm nhường và phục vụ trong yêu thương của Chúa. Trong chuyến viếng thăm mục vụ Chúa Nhật 22.9.2013, ĐTC. Phanxicô đã dành buổi chiều cùng ngày để gặp gỡ người nghèo, các tù nhân được Caritas giúp đỡ, giới văn hóa và giới trẻ tại thành phố Cagliari, thủ phủ đảo Sardegna của Italia. Có 130 người nghèo cùng với một số tù nhân và các nhân viên Caritas hiện diện tại Nhà Thờ, với bầu không khí hân hoan và cảm động. Trong bài huấn dụ tại cuộc gặp gỡ, Đức Thánh Cha nói: ”Khi nhìn Chúa Giê-su chúng ta thấy Chúa đã chọn con đường khiêm hạ và phục vụ. Đúng ra, chính bản thân Chúa là con đường ấy... Con đường của Chúa là con đường bác ái. Vì thế chúng ta thấy bác ái không phải chỉ là ban cấp sự giúp đỡ, nhưng là sự chọn lựa một lối sống; là con đường khiêm hạ và liên đới. Sự khiêm hạ của Chúa Ki-tô không phải là để dạy đời, không phải là một tình cảm, nhưng đó là điều chân thực: Chúa muốn trở nên bé nhỏ, ở với những người hèn mọn, với những người bị loại trừ, ở với chúng ta là những người tội lỗi. Nhưng chúng ta cần để ý, đây không phải là một ý thức hệ! Nhưng là một lối hiện hữu và sống, đi từ tình yêu, từ trái tim của Thiên Chúa Cha…Nhưng nhìn ngắm Chúa mà thôi thì vẫn chưa đủ, còn phải theo Chúa nữa. Và đó là khía cạnh thứ hai. Chúa Giê-su không đến để trình diễn cho người ta thấy. Chúa Giê-su là đường và con đường là để bước theo”.

Bước theo Ngài để học hỏi, để sống với Ngài và như Ngài là Đấng hiền lành và khiêm nhường: “Tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến cùng tôi, tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng. Anh em hãy mang lấy ách của tôi, và hãy học với tôi, vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường. Tâm hồn anh em sẽ được nghỉ ngơi bồi dưỡng. Vì ách tôi êm ái, và gánh tôi nhẹ nhàng” (Mt 21,28-30).

 

- Xin Chúa giúp chúng ta học hỏi và sống tinh thần hiền lành của Chúa.

 

Tinh thần hiền lành khiêm nhường và phục vụ trong yêu thương của Chúa là một bài học cần thiết cho đời sống Đức Tin. Chúng ta ý thức rằng, với sức mình, chúng ta không thể thấm nhuần và sống được tinh thần tuyệt vời đó. Vì thế, trên hành trình này, chúng ta cầu xin Chúa Giê-su đừng để chúng ta bị trượt ngã trong những lúc gặp thử thách và cám dỗ. Xin Chúa giúp chúng ta trở nên hiền lành, bằng cách chúng ta luôn giữ vững niềm tin tưởng rằng, chúng ta luôn được ẩn náu trong bàn tay của Chúa, ngay cả những lúc thê thảm nhất của cuộc đời. Chúng ta được phép tín thác hoàn toàn vào lòng lân tuất yêu thương vô bờ của Đức Ki-tô. Ngoài ra, có những hành động cụ thể chúng ta làm để sống tinh thần hiền lành[vii]:

 

Kết hiệp với Chúa Giê-su hiền lành và khiêm nhường, trong những cuộc họp, đối thoại hay tranh luận chúng ta không luôn luôn muốn mình là người có tiếng nói, và nói cả lời cuối cùng để kết thúc cuộc họp, đối thoại hay tranh luận. Chúng ta cần tập chấp nhận người khác điều khiển buổi họp và tiếng nói của họ là tiếng nói cuối cùng. Chúng ta có thể học im lặng trong một điểm nào đó, và thực sự khiêm nhường cũng như nhường quyền điều khiển cho người khác. Chúng ta sẽ chẳng mất gì, nếu một lần anh chị em thắng cuộc.

 

Xấu xa không thể trả bằng xấu xa. Ở đây, không chỉ là những hành động xấu xa bạo lực làm tổn hại thân xác, mà còn cả những sự xấu xa nhỏ nhoi khác mà chúng ta cũng hay gặp phải. Nhiều khi chúng ta tức giận chỉ vì một lời nói, một thái độ nhỏ làm tổn thương, hay một sự nghi ngờ của người khác. Và rồi, chúng ta cứ đeo bám những cái nhỏ nhoi đó, dù rằng đôi khi chúng chẳng muốn bám theo đuôi chúng ta. Với thời gian chúng ta đau khổ, vì chúng ta để những thứ đó ảnh hưởng trên bản thân và tâm hồn. Và chúng ta chỉ muốn đỡ đau bằng cách trả thù lại. Hành động này thật là tổn hại cho sức khỏe tinh thần và thân xác. Nó cũng không tương hợp với tinh thần hiền lành của Ki-tô giáo. Nó làm cho tâm hồn chúng ta bị đau đớn, làm cho tinh thần chúng ta ra nặng nề. Trong đầu chúng ta những tư tưởng tiêu cực chế ngự, và cản trở chúng ta trong việc cầu nguyện. Như vậy, những tiêu cực nhỏ nhoi này, cũng như ảnh hưởng xấu của chúng đang làm chủ chúng ta, chúng đem lại nhiều chướng ngại vật trong tương quan của chúng ta với Chúa và với người khác.

Vì thế, cần chú ý để thanh thoát hơn, ôn hòa và hiền lành hơn. Đừng chấp cứ những chuyện nhỏ nhoi, đừng để những hành động, lời nói hay điều gièm pha tiêu cực của người khác ảnh hưởng trên chúng ta. Mạnh hơn nữa, chúng ta đừng để cho người khác có quyền trên mình. Chúng ta thử suy nghĩ coi, khi họ nói hay làm những hành động xấu xong, sau đó họ đi mất. Còn chúng ta ở lại một mình ôm ấp một nỗi đau, nỗi đau triền miên làm mất đi niềm vui sống. Mà đau như vậy đâu có đáng gì. Chỉ có một mình Thiên Chúa là Thiên Chúa hiền lành và khiêm nhường trong lòng có quyền trên chúng ta.

 

Với Chúa Giê-su hiền lành và khiêm nhường, chúng ta tập luôn chú ý đến người nhỏ bé, bất hạnh và yếu đuối. Đó là những cụ già không còn sức lực để tự lo cho mình; những anh chị em vì bất cứ lý do nào đó bị mất thăng bằng về tâm lý và sống cô đơn, sợ hãi trong xã hội; những anh chị em mà cuộc đời gọi là “mát” và “điên”; những anh chị em và đặc biệt các em bé bị bỏ rơi hay tệ hơn nữa bị rao bán giữa chợ đời; những trẻ vị thành niên bị lạm dụng về sức lao động hay thê thảm hơn về lạm dụng về tình dục. Chúa Giê-su mời gọi chúng ta sống tinh thần hiền lành, nghĩa là chúng ta hiền nhưng không ngồi lì một chỗ, mà ngược lại hiền lành để sống tinh thần yêu thương của Chúa Giê-su, Đấng hiền lành và khiêm nhường trong lòng. Trong tinh thần đó, chúng ta không bao giờ chỉ cậy dựa vào sức mình. Cần phải tin tưởng vào Chúa Giê-su, người mục tử hiền lành nhân hậu đã đi theo những con chiên đau yếu và bị bỏ rơi, và Ngài đã đi đến tận những nơi mà con chiên đau khổ nhất. Nơi đó chính là Thánh Giá. Đứng trước Thánh Giá Chúa, chúng ta ý thức cầu xin Chúa giúp chúng ta biết luôn chạy đến với Chúa, để học và sống cùng Chúa, Đấng hiền lành và khiêm nhường trong lòng, nhờ đó chúng ta được đón nhận đất hứa Chúa ban.

 

  • Được đất hứa làm cơ nghiệp.

 

Trong Mối Phúc chúng ta đang suy niệm, đất hứa làm cơ nghiệp là lời hứa dành cho những người hiền lành. Nhưng đất hứa này có ý nghĩa gì vậy? Lật lại những trang sách Cựu Ước, chúng ta thấy rằng, đất hứa luôn là đích đến và là niềm hy vọng cho dân Ít-ra-en lang thang trong hoang địa. Qua Áp-ra-ham, Thiên Chúa đã hứa với dân Ít-ra-en một miền đất. Tuy nhiên, đất hứa này không chỉ giới hạn trong phạm vi đất đai. “Trong những năm dân Ít-ra-en lang thang trong hoang địa, lời hứa đất đai luôn luôn được nhìn trước như mục đích của hành trình. Trong nơi lưu đày, Ít-ra-en đợi chờ ngày trở lại miền đất. Tuy nhiên, chúng ta không được bỏ sót vì lời hứa đất đai rõ ràng là về một điều gì đó lớn hơn một tư tưởng thuần túy, chỉ sở hữu một mảnh đất hay lãnh thổ quốc gia theo nghĩa mọi người có quyền để có”.[viii]

Như thế, đất hứa này có ý nghĩa gì hơn nữa? “Trong cận ảnh của cuộc đấu tranh giải phóng trước cuộc xuất hành của Ít-ra-en ra khỏi Ai cập, vấn đề chính là quyền tự do để thờ phượng, quyền của dân chúng đối với phụng vụ riêng của họ. Thời gian trôi qua, điều này đã trở thành hiển nhiên rằng, lời hứa về đất đai có nghĩa như sau: Miền đất được ban cho như một không gian để vâng phục, một lãnh vực để mở ra cho Thiên Chúa, được giải phóng khỏi mọi ghê tởm trong việc thờ ngẫu tượng. Khái niệm về vâng phục Thiên Chúa, và cũng thế, về trật tự đúng đắn của trái đất, là yếu tố nền tảng trong khái niệm tự do và khái niệm đất đai...Cách hiểu mới và tích cực về cuộc lưu đày của dân Ít-ra-en có thể xuất phát từ cách tư duy này: Ít-ra-en đã bị phân tán khắp nơi trên thế giới, nhờ đó, bất cứ nơi nào, Ít-ra-en cũng có thể tạo ra không gian cho Thiên Chúa và vì thế, hoàn tất mục đích sáng tạo đã được trình thuật tạo dựng thứ nhất gợi lên (x.St 1,1-2, 4). Ngày Sa-bát là mục đích của sáng tạo và cho thấy sáng tạo để làm gì? Nói cách khác, thế giới hiện hữu vì Thiên Chúa đã muốn dựng nên một không gian để đáp trả lại tình yêu của Người, một không gian vâng phục và tự do. Từng bước từng bước, khi Ít-ra-en chấp nhận và đau khổ với tất cả thăng trầm trong lịch sử của mình như dân Chúa, tư tưởng về đất đai đã lớn mạnh trong chiều sâu và chiều rộng, chuyển đổi điểm nhấn từ việc sở hữu quốc gia đến tính phổ quát mà Thiên Chúa đã công bố về trái đất”.[ix]

Tuy nhiên, hình ảnh của đất hứa dành cho người hiền lành cũng mang một ý nghĩa thực tế. Đó là người hiền lành, giản dị và khiêm nhu luôn tìm thấy được một nơi chốn để nương thân. Dù cho có bị áp bức, bị tấn công, nhưng sau đó họ vẫn tồn tại, và tiếp tục trỗi dậy để lại cày cấy đất đai, tiếp tục gieo giống và thu hoạch giữa những đau thương và khó khăn. Có thể nói “trong cái nhìn lịch sử, người khiêm nhường, người giản dị, tồn tại lâu hơn những người thích dùng bạo lực và sức mạnh. Nhưng còn hơn nữa, sự phổ quát hóa dần dần về khái niệm đất đai trên nền tảng của nền thần học hy vọng cũng phản ánh chân trời phổ quát mà chúng ta đã tìm ra trong lời hứa của Da-ca-ri-a: Mảnh đất của vua hòa bình không phải là quốc gia, nhưng kéo dài ‘từ biển này qua biển nọ’ (Dcr 9,10). Hòa bình nhắm đến việc xóa bỏ các biên giới và đổi mới trái đất qua hòa bình đến từ Thiên Chúa. Cuối cùng, trái đất thuộc về người hiền lành, hòa bình, như Thiên Chúa đã nói với chúng ta. Có nghĩa là trở nên ‘miền đất của vua hòa bình’. Mối Phúc thứ ba mời gọi chúng ta định hướng cuộc đời của mình theo mục đích này”.[x]

Miền đất của Vua hoà bình là miền đất dành cho những người hiền lành. Như thế, “đối với chúng ta người Ki-tô hữu, mỗi cuộc tụ họp Thánh Thể trở thành nơi vua hòa bình ngự trị theo ý nghĩa này. Vì thế, sự hiệp thông phổ quát của Hội thánh của Chúa Giê-su Ki-tô trở thành bản phác thảo sơ bộ cho ‘thế giới’ tương lai, thế giới này cần trở thành mảnh đất hòa bình của Chúa Giê-su Ki-tô”.[xi] Trên mảnh đất hoà bình của Chúa Giê-su Ki-tô, tất cả mọi người hiền lành đều tìm được chỗ để nghỉ ngơi và bồi dưỡng sức lực: “Tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến cùng tôi, tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng. Anh em hãy mang lấy ách của tôi, và hãy học với tôi, vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường. Tâm hồn anh em sẽ được nghỉ ngơi bồi dưỡng. Vì ách tôi êm ái, và gánh tôi nhẹ nhàng” (Mt 11,28-30). Lời này là một lời mời gọi tràn đầy tình yêu thương của Đấng hiền lành và khiêm nhường trong lòng. Đến với Chúa, ở bên Chúa và ở trong vòng tay yêu dấu của Chúa chính là được ở trong miền đất hứa mà Chúa dành cho những người hiền lành, tin tưởng vào Chúa. Chuyện kể về một linh mục Dòng Tên, bị bắt giam trong tù. Người lính canh tù nói với cha rằng “Ông có cầu nguyện bao nhiêu đi nữa thì vẫn rơi vào trong tay chúng tôi. Lời cầu nguyện của ông chẳng có giá trị gì”. Cha trả lời anh cai ngục: “Tôi cầu nguyện không phải để không rơi vào tay của các anh, mà tôi cầu nguyện để tôi được rơi vào trong bàn tay của Thiên Chúa”.

Rơi vào bàn tay của Thiên Chúa trong hoàn cảnh đau thương và khó khăn là được sống trong miền đất Chúa hứa. Miền đất của Vua Hoà Bình Giê-su Ki-tô ở ngay trong ngục tù, cũng như ở bất cứ nơi nào khó khăn nhất và khổ đau nhất. Hình ảnh của Đức cố hồng y Thuận, trong tù ngục vẫn cử hành bí tích Thánh Thể với giọt rượu và tấm bánh trên đôi tay thay cho chén thánh, đã diễn tả sống động đất hứa của Chúa Giê-su Ki-tô hiện diện sống động ngay trong đêm đen của cuộc đời. Trong màn đêm tăm tối đó, Ánh Sáng của Chúa Ki-tô vẫn chiếu sáng. Khi Chúa Ki-tô chiếu sáng, thì đất hứa đang ở đó cho mọi người, đặc biệt cho những người hiền lành và chịu nhiều thiệt thòi, những người buồn sầu và khổ đau. Những anh chị em bất hạnh đó không bao giờ bị Chúa bỏ rơi. Ngài hiện diện ở bên để ủi an và nâng đỡ.

 

[i] RATZINGER J., Benedikt XVI, Jesus von Nazareth II, Herder Verlag, Freiburg 2011, t.230.

[ii] BENEDIKT XVI, Bài Giáo Lý thứ 27 về cầu nguyện, ban hành ngày Thứ Tư mùng 15 tháng 2 năm 2012, tại Vatican. Bản tiếng Việt của Phao-lô Phạm Xuân Khôi trong <http://www.giaoly.org>

[iii] Trong Phúc Âm của Gio-an, tấm bảng trên Thập Giá Chúa được viết bằng ba thứ tiếng. Híp-ri, La-tinh và Hy-lạp (X. Ga 19, 20). Tiếng La-tinh như sau: “IESVS NAZARENVS REX IVDÆORVM – Giê-su Na-gia-rét, Vua dân D-thái” (X. Ga 19,19). Chữ này được viết tắt bởi bốn từ đầu của bốn chữ trong tiếng La-tinh trên: I.N.R.I. Trong tiếng Hy-lạp là:  Ἰησοῦς ὁ Ναζωραῖος ὁ βασιλεὺς τῶν Ἰουδαίων - Iesous ho Nazoraios o basileus ton Ioudaios. Còn tiếng Híp-ri là: Jeschua HaNotzri Melech Hajehudim.

[iv] RATZINGER J., Benedikt XVI, Jesus von Nazareth II, t.236.

[v] RATZINGER J., Benedikt XVI, Jesus von Nazareth II, t.235.

[vi] BENEDIKT XVI, Thông Điệp Thiên Chúa là Tình Yêu – Deus Caritas Est, bản tiếng Việt của Uỷ Ban Giáo Lý Đức Tin, HĐGM VN. Nguồn: www.simonhoadalat.com.

[vii] X. MARTINI C.M., Selig seid ihr!, t.51-53.

[viii] RATZINGER J., Benedikt XVI, Jesus von Nazareth I, t.112-113.

[ix] RATZINGER J., Benedikt XVI, Jesus von Nazareth I, t.113.

[x] RATZINGER J., Benedikt XVI, Jesus von Nazareth I, t.114.

[xi] RATZINGER J., Benedikt XVI, Jesus von Nazareth I, t.114.

bottom of page