top of page

- Tha thứ, thái độ căn bản của lòng thương xót.

 

Trong Kinh Lạy Cha, Chúa Giê-su dạy chúng ta cầu nguyện xin Thiên Chúa thương xót tha thứ cho chúng ta: “xin tha tội cho chúng con, như chúng con cũng tha cho những người có lỗi với chúng con” (Mt 6,12). Lời cầu xin tha thứ mà Chúa Giê-su dạy cũng là một trong những chủ đề chính trong những lời cầu nguyện của người Do Thái. Trong lời cầu nguyện 18 của người Do Thái, có lời cầu xin ơn tha thứ: Lạy Cha, xin cha cho chúng con, vì chúng con đã phạm lỗi chống lại Cha, xin xóa bỏ những lầm lỗi của chúng con trước mặt Cha, vì lòng nhân từ của Cha thật bao la. Lạy Gia-vê Thiên Chúa, Đấng hay tha thứ, xin ngợi khen Cha.[i] Đọc kỹ lại từng lời cầu nguyện trong Kinh Lạy Cha, sẽ nhận ra được nét đặc biệt trong lời cầu nguyện về tinh thần tha thứ. Đó là, chỉ trong lời cầu nguyện này, theo Joachim Jeremias[ii], có thêm một yếu tố “thêm vào”, đó là hành động của con người: “Như chúng con cũng tha cho những người có lỗi với chúng con”. Còn trong các lời cầu nguyện khác chỉ nói về hành động của Thiên Chúa. Vì thế, có thể nói rằng, sự tha thứ của Thiên Chúa luôn gắn liền với sự tha thứ của con người.

Điều này được diễn tả sống động trong dụ ngôn “tên đầy tớ mắc nợ không biết thương xót” (x.Mt 18,23tt). Ý tưởng quan trọng của dụ ngôn này được diễn tả qua câu nói của vị vua trong câu chuyện: “Tên đầy tớ độc ác kia, ta đã tha hết số nợ ấy cho ngươi, vì ngươi đã van xin ta, thì đến lượt ngươi, ngươi không phải thương xót đồng bạn, như chính ta đã thương xót ngươi sao?” (Mt 18,32-33). Câu nói của vị vua nhấn mạnh thêm tầm quan trọng của tinh thần tha thứ trong đời sống Đức Tin, cụ thể trong tương quan của người Ki-tô hữu với Chúa và với người khác. Tuy nhiên, theo Gnilka, trong lời cầu xin tinh thần tha thứ của Kinh Lạy Cha, chúng ta không được phép nói rằng: những ai đã sẵn sàng tha thứ cho người khác thì họ đã có một công nghiệp. Với công nghiệp này họ được phép đòi hỏi sự tha thứ của Chúa. Đúng hơn, người Ki-tô hữu cần ý thức rằng: con người chỉ được phép cầu xin ơn tha thứ của Chúa, khi con người về phần mình đã sống tinh thần tha thứ.[iii]

 

Cũng thế, đối với Michel Hubaut, thì “chữ ‘như’ này diễn tả một sự lô-gíc của tình yêu…Và không thể chấp nhận được tình trạng, một đàng đón nhận tình yêu của Thiên Chúa, Đấng tha thứ, nhưng đàng khác vẫn đóng kín mình lại và từ chối tha thứ cho tha nhân. Con người cộng tác vào sự tha thứ tội lỗi cho chính họ bằng cách họ đón nhận tình yêu giàu lòng thương xót của Thiên Chúa, Đấng giúp cho con người có khả năng để tha thứ cho anh chị em. Con người, khi sống tinh thần tha thứ cho người khác, là họ bước vào trong sự lô-gic của lòng nhân từ bao la của Thiên Chúa”.[iv] Thật vậy, sự tha thứ và lòng nhân hậu của Thiên Chúa lớn hơn tất cả những tội lỗi của con người. Ngài có thể biến đổi những lầm lỗi vào trong tình yêu. Tất cả đều có thể đối với Thiên Chúa, tất cả những gì cũ kỹ đều có thể trở nên mới đối với Thiên Chúa.

 

Cũng thế, sự tha thứ đem lại một cuộc gặp gỡ mới, sự tha thứ “cưu mang” một sự sinh ra mới, đó chính là giao ước mới của Thiên Chúa với dân Ngài, mà tiên tri Giê-rê-mi-a diễn tả : “Này sẽ đến những ngày - sấm ngôn của Đức Chúa - Ta sẽ lập với nhà Ít-ra-en và nhà Giu-đa một giao ước mới, không giống như giao ước Ta đã lập với cha ông chúng, ngày Ta cầm tay dẫn họ ra khỏi đất Ai-cập; chính chúng đã huỷ bỏ giao ước của Ta, mặc dầu Ta là Chúa Tể của chúng - sấm ngôn của Đức Chúa. Nhưng đây là giao ước Ta sẽ lập với nhà Ít-ra-en sau những ngày đó - sấm ngôn của Đức Chúa. Ta sẽ ghi vào lòng dạ chúng, sẽ khắc vào tâm khảm chúng Lề Luật của Ta. Ta sẽ là Thiên Chúa của chúng, còn chúng sẽ là dân của Ta. Chúng sẽ không còn phải dạy bảo nhau, kẻ này nói với người kia: ‘Hãy học cho biết Đức Chúa’, vì hết thảy chúng, từ người nhỏ đến người lớn, sẽ biết Ta - sấm ngôn của Đức Chúa. Ta sẽ tha thứ tội ác cho chúng và không còn nhớ đến lỗi lầm của chúng nữa” (Gr 31,31-34).

 

Dù dân Ít-ra-en có thất trung và “đập vỡ” giao ước với Thiên Chúa trên núi Si-nai, nhưng Thiên Chúa vẫn trung tín và một mực yêu thương dân của Ngài. Ngay từ ngày đầu tiên, Thiên Chúa với tình yêu đã nói lời xin vâng đối với con cái của Ngài, thì lời xin vâng đó có giá trị cho đến ngàn đời. Sợi dây nối kết của lời xin vâng tình yêu này vững chắc đến nỗi, không có sức mạnh nào của sự dữ, của bóng đêm có thể cắt đứt được. Ngược lại, trong lời xin vâng của tình yêu, Thiên Chúa thiết lập một giao ước mới với con cái của Ngài. Nhưng “cái mới” này không phải là sự lập lại của hành động ngày xưa, mà “cái mới” này diễn tả sự tái lập cách tuyệt vời dân của Thiên Chúa, sự tái lập này dựa trên sức mạnh biến đổi và thánh hóa nội tâm mà con cái của Thiên Chúa nhận được. Vì thế, lề luật và tinh thần của Chúa không còn được ghi trên phiến đá như giao ước ngày xưa trên núi Si-nai, mà được ghi trong tâm khảm của con người. Nơi tâm khảm đó, nơi cái bên trong sâu thẳm nhất, những người con của đất thấp học biết Cha của trời cao. Cái biết này không chỉ là cái biết thông thường của trí hiểu, mà là cái biết diễn tả thái độ đón nhận và biểu lộ niềm tin tuyệt đối vào Thiên Chúa, cái biết của những tấm lòng đơn hèn vui mừng bước vào trong tương quan tình yêu với Ngài, vào trong một cộng đoàn với Thiên Chúa là Cha,[v] Đấng yêu thương con người đến nỗi đã hy sinh người Con duy nhất của Ngài cho nhân loại. Đó là Đức Giê-su Ki-tô, Ngài đến để đem Tin Mừng cho con người, Tin Mừng của tha thứ, Tin Mừng của cứu rỗi.

Theo sách ngôn sứ I-sai-a, Người Tôi Tớ của Giavê là Đức Ki-tô sẽ gánh lấy tội của thế gian (x.Is 53,7). Bởi vậy, Gio-an Tẩy giả đã tóm tắt thế nào là chờ đợi Đấng Mê-si-a: đó là nhận “phép rửa thống hối, để được tha tội” (Mt 1,21). Đây là một chủ đề cốt yếu của Tin Mừng. Tha tội là đặc điểm của trật tự mới, một trật tự phải chi phối những quan hệ giữa Thiên Chúa và con người. Nói cách khác, Đức Ki-tô đến rao truyền Phúc Âm của Chúa. Phúc Âm này là Tin Mừng dành cho mọi người, là sứ điệp đem lại niềm vui. Nhưng Đức Ki-tô không chỉ là người giảng lý thuyết, mà đi đôi với lời giảng là những hành động tương hợp với tinh thần của Ngài. Thật vậy, xuyên suốt bốn Tin Mừng, biết bao hành động của Đức Ki-tô đã đưa lại niềm vui cho những con người bất hạnh, cho những con người tội lỗi. Hình ảnh của người phụ nữ tội lỗi nổi tiếng trong thành mà Lu-ca nhắc đến là một điển hình (x.Lc 7,36-50).

 

Một cuộc gặp gỡ thật đặc biệt giữa lòng nhân từ hay tha thứ của Chúa, với thân phận tội lỗi nhưng chất chứa nỗi lòng ăn năn sâu thẳm của người phụ nữ. Một cuộc gặp gỡ khác giữa người phụ nữ bị kết án vì tội lỗi và Đức Ki-tô. Bối cảnh và tình tiết của câu chuyện được Gio-an diễn tả thật đặc biệt (x.Ga 8,2-11). Một phụ nữ bị bắt phạm tội ngoại tình, và theo luật thì bà ta phải bị ném đá. Xử theo luật sẽ là như thế, còn Đức Ki-tô, một Ráp-bi giảng về lòng nhân từ và tình yêu trong đôi mắt người Do Thái thời đó, sẽ xử như thế nào đây? Giữa vòng tròn đám đông vây quanh và dưới sức ép của bao “cái mồm to” đang đổ dồn và chờ đợi, Đức Ki-tô vẫn bình tâm, cúi xuống viết trên đất. Chẳng hiểu Ngài viết gì. Một thái độ lạ lùng làm đám đông nhốn nháo và vặn hỏi Ngài nhiều hơn.

Vẫn bình tâm, Đức Ki-tô ngẩng đầu lên và nói: “Ai trong các ông sạch tội, thì cứ việc lấy đá mà ném trước đi”. Một câu nói thật nhẹ nhàng, nhưng rất rõ ràng được ném vào bao “cái mồm to” với dụng ý rất xấu xa của đám người gian ác. Và điều gì xảy ra? Tất cả im thin thít, và những bước chân lẳng lặng tách khỏi đám đông, từ đôi chân già nhất đến đôi chân trẻ nhất. Vòng tròn kết án của con người theo luật lệ hà khắc đã tan biến, trả lại một bầu khí nhẹ nhàng dễ thở hơn.

“Ai trong các ông sạch tội, thì cứ việc lấy đá mà ném trước đi”. Chúa đã nói lời này với nhóm người chỉ nhìn đến lề luật và tội lỗi của người đàn bà; họ tự tin, họ ngạo nghễ dương dương tự đắc. Với lời đó, Chúa muốn nhắc họ nhớ đến tội lỗi của họ: họ không thể để mình ra như những kẻ vô phương trách cứ và không có tội; chính họ cũng cần chạy đến xin Thiên Chúa kiên nhẫn với họ và thương xót họ. Làm sao mà họ có thể vội vã yêu cầu xử tử người đàn bà này như thế, mà không hề nghĩ lại bản thân của họ? Ngoài ra, Chúa không muốn đưa ánh mắt nhìn họ, mà Chúa mời gọi họ hãy tự mình phán xét chính mình; Ngài không muốn gây áp lực trên sự tự do của bất kỳ ai. Thân phận làm người là như thế, đã là người thì có tội. Thiên Chúa là Đấng hoàn toàn tốt lành và thánh thiện, đúng lý ra Ngài có đầy đủ lý do để lên án loài người tội lỗi chúng ta, nhưng vì thương xót, Ngài đã ban cho chúng ta biết bao cơ hội: “Ta không muốn kẻ tội lỗi phải chết, nhưng muốn nó ăn năn sám hối và được sống”. Trong dụ ngôn về hai con nợ, Chúa Giêsu cũng nói một câu đáng chúng ta suy nghĩ: “Sao ngươi không biết thương xót bạn ngươi như Ta đã thương xót ngươi” (Mt 18,33).

Không một ai dám khẳng định là mình không có tội; không một ai dám cầm đá mà ném trước cả. Tất cả đã bỏ đi. Chỉ còn chị phụ nữ và Chúa Giê-su. Về điều này, thánh Âu-tinh bình luận thật thâm thúy: chỉ còn lại nơi hiện trường có hai hữu thể là người phụ nữ đáng thương và Ðức Giêsu là hiện thân của lòng thương xót (Relietic sunt duo, misera et misericordia).

 

Đặt mình là người phụ nữ lúc đó, chắc cũng thở phào ra một chút, nhưng vẫn còn hồi hộp lắm, vì không biết Đức Ki-tô sẽ xử với tội lỗi của mình như thế nào. Vẫn với thái độ bình tâm, Đức Ki-tô ngẩng đầu lên và bây giờ Ngài mới nói với người tội lỗi : “Này Chị, họ đâu cả rồi? Không ai lên án chị sao?”. Cho tới đây, Người chỉ quan tâm đến các kẻ tố cáo người phụ nữ; bây giờ Người ngỏ lời với bà.

“Thưa ông, không có ai cả”. Trước lời đáp trả của người phụ nữ, Đức Ki-tô dịu dàng nhưng rất cương quyết nói với chị: “Tôi cũng vậy, tôi không lên án chị đâu! Thôi chị cứ về đi, và từ nay đừng phạm tội nữa!”. Lòng nhân từ lên tiếng tha thứ và đem lại sức sống mới. Một sức sống mới cần phải đoạn tuyệt với tội lỗi, một sức sống mới tràn đầy tự do, niềm vui và hạnh phúc. Nói khác đi, Chúa không lên án mà cũng không dung túng, nhưng Ngài cho kẻ có tội một cơ hội. Nếu Ngài lên án thì chị này phải chết, không còn cơ hội nào nữa. Nếu Ngài bỏ qua thì chị này sẽ tiếp tục phạm tội, cũng không có cơ hội. Ngài bảo chị về và đừng phạm tội nữa tức là cho chị một cơ hội để làm lại cuộc đời.

Với gương lành sống tinh thần tha thứ của Đức Ki-tô và với lời dạy dỗ của Ngài mời gọi, chúng ta cần học biết cảm thông, tha thứ. Thật vậy, sự tha thứ đóng một vai trò quan trọng trong đời sống làm người. Đó là một trong những thái độ căn bản trong đời sống bình thường cho mọi người và đặc biệt cho đời sống của người Ki-tô hữu, những người tin vào Đức Ki-tô, Đấng đã sống tinh thần tha thứ cách triệt để, và đã dạy dỗ con cái theo gương Ngài sống tinh thần tha thứ cho nhau. Kế bên lời cầu nguyện trong Kinh Lạy Cha về tinh thần tha thứ mà Đức Ki-tô dạy, chúng ta tìm thấy trong Tin Mừng những giáo huấn khác của Đức Ki-tô nhắc nhớ chúng ta sống tinh thần tha thứ. Như trong những câu kế tiếp của Kinh Lạy Cha, Đức Ki-tô nhắc lại tinh thần tha thứ, nhưng với một cung cách rõ ràng và mạnh mẽ hơn: “Thật vậy, nếu anh em tha lỗi cho người ta, thì Cha anh em trên trời cũng sẽ tha thứ cho anh em. Nhưng nếu anh em không tha thứ cho người ta, thì Cha anh em cũng sẽ không tha lỗi cho anh em” (Mt 6,14-15). Như vậy, tha thứ cho anh chị em đồng loại là một đòi hỏi dành cho những ai sống đời sống Đức Tin vào Chúa. Chính sự đòi hỏi này cũng là một lời cảnh báo, đừng bao giờ để cho những tự ái, những căng thẳng, những vết thương, sự thù hận và sự chai cứng trái tim “giết chết” đi lòng nhân từ, nhận chìm thiện chí hòa giải. Đời sống người Ki-tô hữu hệ tại phần lớn ở chính lòng nhân từ thương xót, yêu mến sự hòa bình và sẵn sàng tha thứ, như chính Đức Ki-tô đã sống và mời gọi chúng ta sống như Ngài. Tuy nhiên, tha thứ là một điều không dễ làm. Đó là một hành vi đòi hỏi chúng ta phải mở lòng ra, đôi khi phải lấy hết can đảm để nói lên hai tiếng “tha thứ”, để chạy đến với người có lỗi và giang rộng đôi tay ôm họ vào lòng.

 

Đón nhận nhau, tha thứ cho nhau thật đẹp. Nhưng trong tha thứ có giới hạn về thời gian và không gian không? Trong Phúc Âm của Mát-thêu, chúng ta đọc lại một cuộc đối thoại ngắn ngủi của Phê-rô với Chúa Giê-su: “Bấy giờ, ông Phê-rô đến gần Đức Giê-su mà hỏi rằng: ‘Thưa Thầy, nếu anh em con cứ xúc phạm đến con, thì con phải tha đến mấy lần? Có phải bảy lần không?’ Đức Giê-su đáp: ‘Thầy không bảo là đến bảy lần, nhưng là đến bảy mươi lần bảy’.” (Mt 18,21-22). Thật thú vị, câu trả lời của Đức Ki-tô! Martini đã làm một con tính, lấy 1440 phút của mỗi ngày để chia với 490 lần là kết quả của 70 lần 7, thì trong một ngày, cứ gần 03 phút cần phải tha thứ một lần. Như thế, tha thứ cho nhau là thái độ thường xuyên và cần thiết cho cuộc sống thường ngày.[vi] 

 

Còn đối với Bonhoeffer, một thần học gia và mục sư bị phát xít Đức giết vào thế chiến thứ hai, thì tha thứ không cần con số. Đừng đếm bao nhiêu lần cần phải tha thứ. Tha thứ không “quen” số lượng và không biết đến “chấm hết”. Tha thứ là thái độ sống hằng ngày và không ngừng nghỉ.[vii] Thật vậy, trong cuộc sống thường ngày, con người cần phải tha thứ liên lỉ và tha thứ về rất nhiều chuyện. Tha thứ cho một ai đó làm ta thất vọng, tha thứ cho những người đã làm cho ta phải chờ đợi, tha thứ cho những người thân bỏ rơi ta khi ta lâm vào hoàn cảnh cảnh khó khăn, tha thứ cho những lời nói ác ý, những hành động bội phản và lừa dối làm cho ta bị tổn thương. Làm sao kể siết những điều chúng ta cần phải tha thứ. Như thế, cần phải tha thứ không ngừng, phải liên lỉ sống tinh thần hòa giải, nếu chúng ta muốn có một tâm hồn thanh bình, nếu chúng ta ý thức yêu thương chính mình và cuộc sống của mình.

Về câu chuyện của thánh Phê-rô ở trên, Đức Phanxicô cũng nhắc tới trong tông sắc năm Thánh lòng thương xót của Thiên Chúa, số 09: “Khi trả lời cho câu hỏi của Phêrô cần phải tha thứ bao nhiêu lần, Chúa Giêsu nói: ‘Thầy không nói bảy lần, nhưng bảy mươi lần bảy mươi lần’ (Mt 18,22). Sau đó, Ngài tiếp tục kể dụ ngôn về người ‘đầy tớ tàn nhẫn’, là người khi bị chủ gọi đến bảo phải trả lại một số tiền rất lớn, anh đã quỳ trên đầu gối mình van xin lòng thương xót. Người chủ hủy bỏ nợ của anh. Nhưng sau đó anh gặp một người đầy tớ bạn chỉ nợ anh một vài xu. Người bạn đến lượt mình cầu xin anh thương xót, nhưng người đầy tớ đầu tiên đã khước từ và ném bạn mình vào tù. Khi nghe chuyện này, người chủ tức giận và đã triệu hồi người đầy tớ đầu tiên trở lại và nói, ‘ngươi không buộc phải thương xót đồng bạn, như chính ta đã thương xót ngươi sao?’ (Mt 18,33). Chúa Giêsu kết luận: ‘Ấy vậy, Cha của Thầy ở trên trời cũng sẽ đối xử với anh em như thế, nếu mỗi người trong anh em không hết lòng tha thứ cho anh em mình’ (Mt 18,35). Dụ ngôn này chất chứa một giáo lý sâu sắc cho tất cả chúng ta.

 

Chúa Giêsu khẳng định rằng lòng thương xót không chỉ là một hành động của Chúa Cha, nó trở thành một tiêu chuẩn để xác thực ai là con cái thật sự của Ngài. Nói vắn tắt, chúng ta được mời gọi để tỏ lòng thương xót vì lòng thương xót đã được thể hiện ra cho chúng ta trước. Tha thứ cho các sai phạm trở thành diễn đạt rõ ràng nhất của tình yêu thương xót, và đối với Kitô hữu chúng ta đó là một mệnh lệnh mà chúng ta không thể thoái thác cho chính mình. Có những lúc dường như thật là khó biết bao để tha thứ! Nhưng tha thứ là công cụ được đặt vào đôi tay mỏng dòn của chúng ta để đạt được sự thanh thản trong lòng. Lướt thắng được cơn giận, thịnh nộ, bạo lực và trả thù là điều kiện cần thiết để vui sống. Vì vậy, chúng ta hãy chú ý đến lời khuyên nhủ của Thánh Tông Đồ Phaolô: ‘chớ để mặt trời lặn mà cơn giận vẫn còn’ (Eph 4,26)”.  

Ngoài ra, trong Bài Giảng Trên Núi, ở đoạn trước của Kinh Lạy Cha, Chúa Giê-su đã dạy rằng: “Vậy, nếu khi anh sắp dâng lễ vật trước bàn thờ, mà sực nhớ có người anh em đang có chuyện bất bình với anh, thì hãy để của lễ lại đó trước bàn thờ, đi làm hoà với người anh em ấy đã, rồi trở lại dâng lễ vật của mình” (Mt 5,23-24). Sự chia cách và khuynh hướng tạo nên những căng thẳng không được phép có mặt trong đời sống cộng đoàn và giữa anh chị em với nhau. Nếu không, thì mọi người trong cộng đoàn sẽ không xứng đáng dâng lễ để thờ lạy Thiên Chúa. Nói khác đi, sự bất hòa của anh chị em với nhau làm rách mối tương quan giữa họ với Thiên Chúa. Lễ tế dâng lên Thiên Chúa của cộng đoàn cần được phát xuất từ những trái tim hiệp nhất, yêu thương và sẵn sàng tha thứ cho nhau. Lễ tế dâng lên Thiên Chúa và tình huynh đệ nối kết chặt chẽ với nhau.[viii]  Ở đây, thánh Cyprianô nhắn nhủ rằng: “Thiên Chúa không nhận tế phẩm của những kẻ gây bất hoà, và Ngài truyền cho họ hãy rời bỏ bàn thờ, và đi làm hoà với anh em trước đã, ngõ hầu có thể giao hoà với Thiên Chúa bằng những lời nài xin an bình. Hy lễ đẹp lòng Chúa hơn cả là sự bình an của chúng ta, sự hoà thuận, tình đoàn kết của đoàn dân trong sự hợp nhất của Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần”.[ix] Hơn nữa, tương quan giữa chúng ta với Thiên Chúa sẽ trọn vẹn hơn xuyên qua tinh thần hòa giải với người bên cạnh. Thật vậy, “nếu ai nói: ‘Tôi yêu mến Thiên Chúa’ mà lại ghét anh em mình, người ấy là kẻ nói dối” (1Ga 4,20).[x]

Trong giáo huấn về Đức Tin và cầu nguyện, Đức Ki-tô cũng nói: “Khi anh em đứng cầu nguyện, nếu anh em có chuyện bất bình với ai, thì hãy tha thứ cho họ, để Cha của anh em là Đấng ngự trên trời, cũng tha lỗi cho anh em” (Mc 11,25). Lời cầu nguyện cùng với của lễ không bao giờ tương phản với hành động, ngược lại cả hai được nối kết bởi một nhịp cầu. Cũng thế, tương quan của chúng ta đối với Thiên Chúa luôn gắn liền với tương quan của chúng ta với tha nhân. Chúng ta không thể đi vào cộng đoàn để cầu nguyện, để dâng của lễ lên Chúa, cũng như để sống tinh thần hiệp thông yêu thương, nếu lòng chúng ta nặng trĩu những nỗi đau, nếu những nỗi hận đang trì kéo chúng ta xuống những hố sâu đen tối. Hơn nữa, lời cầu nguyện và của lễ của mỗi chúng ta trong cộng đoàn sẽ chẳng sinh ích gì, nếu chúng ta đang có những chuyện xích mích với anh chị em trong gia đình, với người hàng xóm, với bạn bè xung quanh, và lại ôm ấp vết thương và những bực tức, ôm ấp nỗi hận thù ngăn cản không cho tấm lòng nhân từ mở ra để tha thứ, để hòa giải và xây dựng lại đời sống của cộng đoàn. Đối với Jacques Guillet, cộng đoàn của Tin Mừng được thành lập trên tinh thần tha thứ. Cộng đoàn đó chỉ hiện hiện ở nơi mà tất cả các anh chị em, nghĩa là từng cá nhân một trong cộng đoàn có được một chỗ để hiện diện, được góp mặt vào trong một tập thể chung, vượt trên sự khác biệt về tính tình, và bất chấp mặt ưu và mặt khuyết của họ. Trong cộng đoàn đó, anh chị em chấp nhận mỗi người như họ là, chấp nhận tất cả những lỗi lầm và tội lỗi họ gây ra. Đó chính là tinh thần tha thứ được diễn tả qua tinh thần đón nhận nhau trong cộng đoàn.[xi]

Thánh Phao-lô cũng luôn quan tâm đến sự tha thứ trong đời sống cộng đoàn. Ngài đã để lại nhiều giáo huấn khuyên nhủ mọi người trong cộng đoàn sống tinh thần yêu thương và tha thứ. Trong thư gởi giáo đoàn Ê-phê-sô, thánh nhân đã khuyên nhủ mọi người về đời sống mới trong Đức Ki-tô, đời sống mới trong tình yêu của Chúa. Trong lời khuyên đó có đoạn: “Đừng bao giờ chua cay gắt gỏng, nóng nảy giận hờn, hay la lối thoá mạ, và hãy loại trừ mọi hành vi gian ác. Trái lại, phải đối xử tốt với nhau, phải có lòng thương xót và biết tha thứ cho nhau, như Thiên Chúa đã tha thứ cho anh em trong Đức Ki-tô” (Eph 4,31-32). Cộng đoàn của Tin Mừng, của những người con sống theo gương Đức Ki-tô cần lột xác, cần cởi bỏ đi con người cũ với chua cay gắt gỏng, với nóng nảy giận hờn, với la lối thóa mạ, để mặc lấy chính Đức Ki-tô, để thấm nhuần tinh thần của Thần Khí Thiên Chúa, để trở nên con người mới thuộc về Đức Ki-tô. Con người mới đó đứng vững trên mặt đất của tình yêu thương. Nơi đó anh chị em trong cộng đoàn học cách hành xử thật tốt với nhau. Một trong những cách hành xử tốt là luôn ý thức tha thứ cho nhau. Sự tha thứ mang lại tinh thần Phục Sinh cho cộng đoàn. Sự tha thứ này trước hết đến từ Thiên Chúa và qua Đức Ki-tô dành cho mỗi người trong cộng đoàn. Nếu thành thật với nhau, thì sẽ nhận ra rằng, cộng đoàn và mỗi người trong cộng đoàn mỗi ngày luôn cần đến sự tha thứ của Chúa. Vì thế, cộng đoàn cần chú ý cầu xin sự tha thứ của Chúa, và cũng cầu xin Chúa cho mỗi người trong cộng đoàn có thiện chí và có khả năng để biết sống tha thứ cho nhau mỗi ngày.

 

Trong thư gởi cho giáo đoàn Cô-lô-sê, thánh Phao-lô cũng nhấn mạnh đến tinh thần sống tha thứ trong cộng đoàn của những người được Thiên Chúa yêu thương và tuyển chọn: “Anh em là những người được Thiên Chúa tuyển lựa, hiến thánh và yêu thương. Vì thế, anh em hãy có lòng thương cảm, nhân hậu, khiêm nhu, hiền hoà và nhẫn nại. Hãy chịu đựng và tha thứ cho nhau, nếu trong anh em người này có điều gì phải trách móc người kia. Chúa đã tha thứ cho anh em, thì anh em cũng vậy, anh em phải tha thứ cho nhau” (Cl 3,12-13). Thánh Phao-lô mời gọi anh chị em thuộc về cộng đoàn của Thiên Chúa, mang lấy những tinh thần tốt lành của Đức Ki-tô và cần vượt trên những sự khác biệt, vượt qua những thành kiến tiêu cực mà người này có về người nọ, biết chấp nhận nhau, chấp nhận mỗi người như họ là, cần phải chịu đựng lẫn nhau trong ý hướng tích cực và sẵn sàng tha thứ cho nhau. Tinh thần tha thứ bắt nguồn từ chính Thiên Chúa, Đấng là mẫu gương tuyệt vời nhất sống sự tha thứ cách trọn vẹn. Trở nên hoàn thiện như Cha trên trời (x.Mt 5,48), là yêu thương như Cha trên trời yêu thương, là tha thứ như Cha trên trời, Đấng giàu lòng xót thương luôn tha thứ. Khi chúng ta tha thứ là chúng ta sống trong sự hài hòa với tình yêu của Ngài. Cũng thế, khi sống tinh thần tha thứ, là chúng ta mở rộng lòng mình ra cho tình yêu giàu lòng thương xót của Chúa, Đấng chúng ta tôn thờ, Đấng chúng ta tin tưởng, và Đấng mà chúng ta luôn luôn có thể chạy đến bất cứ lúc nào, để xin Ngài che chở, cứu chữa, đặc biệt khi chúng ta rơi vào vòng xoáy của sự dữ, hay khi chúng ta phải đối diện với những cám dỗ thử thách trong cuộc đời dương thế này. Một trong những thử thách lớn là sống nhân từ và yêu thương kẻ thù.

- Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm và giới răn yêu thương kẻ thù.

Cao điểm cũng như chóp đỉnh của tình yêu và lòng thương xót mà Thiên Chúa mời gọi, đối với Chúa Giê-su trong Bài Giảng Trên Núi, chính là giới răn yêu thương kẻ thù: “Khi ấy, Chúa Giê-su nói với các môn đệ rằng: Anh em đã nghe Luật dạy rằng: Hãy yêu đồng loại và hãy ghét kẻ thù. Còn Thầy, Thầy bảo anh em: hãy yêu kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi anh em” (Mt 5,43-44). Chúa đã mời gọi mọi người thực thi và sống giới răn yêu thương kẻ thù cách triệt để. Điều này tương hợp với lời mà Chúa mời gọi chúng ta: “Vậy anh em hãy nên hoàn thiện, như Cha anh em trên trời là Ðấng hoàn thiện” (Mt 5,48). Chính Chúa Giê-su đã sống lời mời gọi của Ngài, khi Chúa cầu xin Thiên Chúa trên trời tha cho các người hành quyết Ngài: “Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm” (Lc 23,34). Thật vậy, lời của Chúa Giê-su trên thánh giá là lời sống. Lời sống được nói từ Thánh Giá cho ta thấy một cách thật ngỡ ngàng tình thương của Thiên Chúa còn lớn hơn tội lỗi biết bao nhiêu. Trước khi suy niệm về lời sống này của Chúa Giê-su, chúng ta thấy rằng, tinh thần yêu thương kẻ thù là một đòi hỏi khó khăn nhất mà Chúa Giê-su trao lại cho chúng ta. Tuy nhiên tinh thần yêu thương kẻ thù lại là điều răn trung tâm nhất của Ki-tô giáo. Điều răn này được cấy rễ trong chiều sâu nhất của Giáo Lý Ki-tô giáo, và vì thế tinh thần này trở thành nét đặc biệt trong cách sống của người Ki-tô hữu. Theo ý kiến của các Giáo Phụ, thì giới răn yêu thương kẻ thù là một nét mới và đặc sắc của Ki-tô giáo đối với Cựu Ước và các triết lý ngoại giáo. Trong thư thứ hai của Clemen có nói: Ai không yêu thương kẻ thù của mình, thì người đó không phải là Ki-tô hữu. Giáo Phụ Tertullian gọi giới răn yêu kẻ thù là giới răn nền tảng, và đối với Chrystosomos thì yêu kẻ thù là tóm tắt toàn bộ các nhân đức.[xii]

Nhưng dù vậy, thì việc yêu kẻ thù vẫn là một đòi hỏi rất khó thực hiện đối với tất cả mọi người. Đó là một lý tưởng mà ít người có thể đạt tới. Vì thế, mà một số người đã đặt ra vấn nạn, giới răn yêu thương kẻ thù có thực tế không? Giới răn yêu thương kẻ thù này có phải là một điều gì nằm trong thế giới hoàn hảo (Utopie), và giới răn này là một sự đòi hỏi vượt sức con người không? Làm sao mà người mẹ có đứa con bị giết lại có thể yêu thương kẻ giết con của mình? Bà có thể tha thứ cho kẻ đó không? Chúng ta sẽ đi về đâu, nếu chúng ta không chống lại sự dữ; chúng ta sẽ đi về đâu, nếu chúng ta tha thứ cho kẻ thù thay vì chúng ta đòi hỏi một sự công bằng? Heinrich Heine, Friedrich Nietzsche, Sigmund Freud và những người khác đã đặt ra những câu hỏi mang tính cách phê bình trên. Với Freud, thì giới răn yêu thương kẻ thù là một loại trong Credo quia absurdum est, nghĩa là là một điều vô nghĩa trong những thứ vô nghĩa.[xiii]

Kasper đã đặt lại vấn nạn chúng ta sẽ đi về đâu, khi chúng ta không nhân từ và không tha thứ, nếu chúng ta trả thù kẻ gây ra những bất hạnh cho chúng ta, bằng hành động xấu xa chúng ta – Mắt đền mắt, răng đền răng. Với Kasper, khi nhìn những kinh nghiệm thật đau thương và ghê gớm của những hành động trả thù trong thế kỷ thứ 20, thì giới răn yêu thương cần được cập nhất hoá trở lại, và lòng thương xót nhân từ và tha thứ cần được mọi người nhắc đến như là những hành động khôn ngoan nhất. Chỉ có những ai vượt trên những nấm mồ cũ kỹ, và sẵn sàng đưa tay để bắt tay người khác, để xin được thứ tha, cũng như để sẵn sàng tha thứ, thì những xung đột gây ra nhiều đau thương và làm cho bao dòng máu phải chảy được đặt lại trên bàn để đi tìm hướng giải quyết. Như thế, một tiến trình chữa lành cho biết bao vết thương gây khổ đau sẽ được bắt đầu. Tiến trình chữa lành này sẽ xuyên suốt qua cái vòng lẩn quẩn của bạo lực và dùng bạo lực để chống lại bạo lực, và cũng xuyên qua cái vòng tròn không lối thoát của tội ác và trả thù.

 

Nói như thế, không phải là chúng ta sẽ giấu nhẹm hay quên khuấy những bất công, những hành động bất nhân. Thật vậy, chúng ta không được phép cất chúng vào trong những ngăn tủ bàn. Chúng ta cần phải thành thật với nhau, đặt những hành động bất nhân và bất công trên bàn, và chúng ta cần phải thú nhận tội lỗi mà chúng ta gây ra với tất cả sự hối lỗi xin thứ tha, cũng như chúng ta mở rộng lòng khoan nhân để tha thứ, để cùng hướng tới một tương lai mới hơn và tốt hơn. Có như thế, thì tinh thần tha thứ sẽ đến, tinh thần này sẽ tẩy trừ nọc độc của thù hận, và làm cho tương quan của chúng ta không còn vướng mắc hai từ ngữ kẻ thù. Như vậy, một sự khởi đầu mới sẽ lên đường, và một tương lai mới của chúng ta sẽ tìm thấy lối đi. Trong tinh thần này, thì giới răn yêu thương kẻ thù không còn là một thứ của credo quia absurdum est nữa, mà là một kiểu của credo quia rationabile est, nghĩa là giới răn yêu thương kẻ thù là một kiểu hành động của lý trí đầy khôn ngoan.[xiv]

Trong tinh thần của Phật Giáo, cũng nhắc tới lòng từ bi đối với kẻ thù. Trong cuốn Bát Chánh Đạo, con đường đưa đến hạnh phúc, Thiền sư Bhante Henelopa Gunaratana viết: “Lòng Từ Bi Đối Với Kẻ Thù. Có người sẽ tự hỏi làm sao mà họ có thể từ bi đối với kẻ thù. Làm sao mà họ có thể nói một cách chân thật, ‘Cầu cho kẻ thù của tôi được hạnh phúc, bình an, sức khỏe. Cầu cho họ không bị những khó khăn hay hoạn nạn’. Câu hỏi này phát khởi từ sự suy nghĩ sai lầm. Người với tâm đầy phiền não có thể cư xử, hành động xúc phạm hay làm hại đến ta. Do đó, ta coi họ là kẻ thù. Nhưng thực sự ra không có ai là kẻ thù của ta cả. Chỉ có trạng thái tâm tiêu cực của người đó gây ra vấn đề cho ta. Chánh niệm giúp chúng ta thấy rằng các trạng thái tâm không thường hằng. Chúng chỉ tạm bợ, có thể sửa đổi, có thể biến chuyển. Cách tốt nhất để ta được an vui, hạnh phúc là giúp kẻ thù của mình giải quyết các vấn đề của họ. Nếu tất cả các kẻ thù của ta đều được giải thoát khỏi khổ đau, bất mãn, sân hận, nghi ngờ, căng thẳng, bực tức, thì họ không có lý do gì để làm kẻ thù của ta cả. Một khi đã không còn những khổ đau, thì kẻ thù cũng giống như bao người khác - một chúng sinh tuyệt vời…Nếu tâm không trong sạch, thì hành động theo sau tâm ý đó sẽ không trong sạch và tai hại. Điều ngược lại cũng đúng. Như Đức Phật đã dạy chúng ta, ý nghĩ trong sạch về từ bi, tình thương thì mạnh mẽ hơn hận thù, mãnh liệt hơn vũ khí. Vũ khí tàn phá. Nhưng tình thương giúp con người sống trong hòa bình và hòa hợp. Vậy bạn thử nghĩ điều gì sẽ mạnh mẽ hơn và sẽ tồn tại lâu hơn?”[xv]

Để có thể thực thi lòng từ bi đối với kẻ thù, với tinh thần của Phật Giáo, cần phải từ bỏ hận thù. “Rào cản lớn nhất đối với lòng từ bi là sân hận. Khi lòng ta tràn đầy sân hận, thì tâm không còn chỗ cho tình cảm thương yêu đối với bản thân hay đối với người khác, không còn chỗ cho hòa bình hay tự tại. Mỗi người phản ứng với sân hận theo cách riêng của mình. Người thì cố gắng để bào chữa cho các cơn giận của mình bằng cách tự nhủ, ‘Tôi có quyền được giận.’ Người khác thì chấp vào sự giận hờn của họ một thời gian dài, đôi khi hàng tháng hay hàng năm. Họ cảm thấy rằng sự sân hận đó khiến họ rất đặc biệt, rất nguyên tắc. Cũng có người lại biểu lộ lòng hận thù ra ngoài bằng những hành động chống báng lại kẻ mà họ giận ghét. Không cần biết cách bạn thể hiện lòng sân hận như thế nào, bạn có thể chắc chắn về một điều: tâm sân hận rút lại làm hại bạn nhiều hơn là nó hại người bạn giận.

Bạn có để ý mình cảm thấy thế nào khi giận dữ không? Bạn có cảm nhận được sự căng thẳng, khó chịu trong lồng ngực, bụng nóng bừng, mắt mờ đi không? Có phải là đầu óc bạn trở nên tối tăm, lời nói trở nên cộc cằn, khó nghe hơn không? Các bác sĩ bảo rằng thường xuyên biểu lộ sân hận mang đến những hậu quả nghiêm trọng cho sức khỏe của chúng ta – máu cao, ác mộng, mất ngủ, đau dạ dày, hay ngay cả đau tim. Lòng sân hận cũng nguy hại cho tâm không kém. Nói một cách thẳng thắng là sân hận khiến thân tâm ta rất khổ sở.

Sân hận cũng làm rạn nứt các mối liên hệ tương quan với người. Bạn thường tránh gặp người bạn đang giận, có đúng không? Ngược lại cũng thế, khi biết bạn giận, người kia cũng tránh bạn. Không ai muốn quan hệ với người đang trong cơn nóng giận. Người tràn đầy sân hận có thể rất vô lý, nhiều khi còn nguy hiểm nữa.

Hơn thế nữa, sân hận thường không tác hại nhiều đến người bị giận. Trong nhiều trường hợp, ta nóng giận với người đã xúc phạm ta, nhưng họ không hề hay biết, nên không ảnh hưởng gì đến họ cả. Ngược lại, chính ta là người phải đỏ mặt, phải lớn tiếng và tạo ra một cảnh tượng khó coi, khiến ta cảm thấy rất khổ sở. Kẻ kình địch còn có thể diễu cợt sự giận dữ của ta…

Rõ ràng là sân hận có thể làm hại bản thân ta, vậy ta phải đối phó với nó như thế nào? Làm sao ta có thể buông bỏ sân hận và thay thế nó bằng tâm từ bi, tình thương yêu? Để đối phó với sân hận, trước hết chúng ta phải quyết định tự kiềm chế không hành động theo bản năng sân hận… Một phương cách khác để đối trị với sân hận là quan sát kết quả của nó. Chúng ta biết rất rõ rằng khi giận dữ, ta không thể thấy sự thật một cách rõ ràng. Do đó, chúng ta có thể phạm vào những hành vi bất thiện… Cách đối trị tốt nhất đối với sân hận là lòng kiên nhẫn. Kiên nhẫn không có nghĩa là để cho người khác lấn lướt ta. Kiên nhẫn có nghĩa là dùng chánh niệm để kéo dài thời gian, để ta có thể hành động một cách đúng đắn. Khi phản ứng lại với sự khiêu khích bằng lòng kiên nhẫn, chúng ta sẽ nói lên được chân lý vào đúng thời điểm và dùng ngôn từ chính xác…

Có một câu chuyện rất nổi tiếng miêu tả sự kiên nhẫn và thông thái của Đức Phật khi đối mặt với một người sân hận: có một người Bà la môn giàu có và quyền lực. Người này có thói quen dễ nổi giận, đôi khi không vì lý do gì. Ông ta thường gây gổ với tất cả mọi người. Nếu có ai đó bị xúc phạm mà không nổi giận, ông cũng sẽ tức giận vì điều đó.

Người Bà la môn này đã nghe rằng Đức Phật chẳng bao giờ nổi giận. Một ngày kia ông ta đến gặp Đức Phật và dùng lời lẽ thóa mạ Ngài. Đức Phật lắng nghe một cách kiên nhẫn và từ bi. Sau đó Ngài hỏi người Bà la môn:

- Ông có gia đình hay bạn bè người thân gì không?

- Vâng, tôi có rất nhiều bạn bè và người thân, người Bà la môn trả lời.

- Ông có đi thăm họ thường không? Đức Phật hỏi.

- Dĩ nhiên. Tôi thăm họ rất thường.

- Ông có mang quà tặng cho họ khi ông thăm viếng họ không?

- Chắc chắn rồi. Tôi chẳng bao giờ đến gặp họ mà không mang quà, người Bà la môn trả lời.

Đức Phật lại hỏi, khi ông tặng quà, giả sử họ không nhận. Ông sẽ làm gì với những món quà đó?

- Tôi sẽ mang chúng về và chia sẻ với gia đình tôi, người Bà la môn trả lời.

Lúc đó Đức Phật nói, cũng thế, ông đã cho tôi một món quà. Tôi không muốn nhận. Nó là của ông. Hãy mang nó về nhà và chia sẻ với gia đình.

Người Bà la môn rất xấu hổ khi ông hiểu và ngưỡng mộ lời khuyên từ bi của Đức Phật. Sau cùng, để đối trị sân hận chúng ta có thể nghĩ đến những lợi ích của tâm từ bi. Theo Đức Phật, khi ta thực hành tâm từ bi, ta sẽ ‘ngủ yên, thức dậy thoải mái, và có những giấc mơ đẹp. Được thân cận với chúng sanh và các loài khác. Chư thiên sẽ độ trì ta. [Nếu ta đầy lòng từ bi, thì ngay lúc đó] khói lửa, thuốc độc và vũ khí không thể làm hại ta. Ta thiền định dễ dàng. Nét thanh tịnh hiện trên gương mặt ta. Ta ra đi nhẹ nhàng và được tái sinh vào cõi giới cao nhất.’ Những viễn ảnh này không phải là dễ chấp nhận hơn là sự khổ sở, sức khỏe kém, và ác nghiệp mà tâm sân hận có thể mang đến cho ta sao?”[xvi]

Đó tinh thần của Phật Giáo, trở về lại với giới răn yêu kẻ thù mà Chúa Giê-su dạy, người Ki-tô hữu luôn có hình ảnh của Chúa Giê-su trước mắt, như là mẫu gương sống tinh thần này cách triệt để. Trên thánh giá, Chúa đã cầu nguyện với Cha trên trời: “Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm” (Lc 23,34).

Đó là lời đầu tiên trên Thánh Giá Chúa Giê-su nói. Lời này ở trong bối cảnh quân lính dẫn Chúa Giê-su tới Đồi Sọ, và chúng đóng đinh Ngài vào Thánh Giá. Với Ngài cũng có hai tên gian phi cùng bị đóng đinh, một tên bên trái và một tên bên phải (x.Lc 23,33-34). Sự kiện này được cả bốn Tin Mừng thuật lại. Tuy nhiên, chỉ có Lu-ca nhắc đến câu nói của Chúa Giê-su Lạy Cha, xin tha cho chúng, vì chúng không biết việc chúng đang làm. Đồi Sọ gợi lên một đồi trọc, không cây cối. Nơi hành hình được định vị ngoài thành thánh. Vùng đất thánh được bao bọc chung quanh, là một khu vực thánh không được xác nạn nhân làm ô uế. Nhưng nơi hành hình này gần cửa thành Giê-ru-sa-lem, vì chính quyền muốn những khách bộ hành trông thấy những nạn nhân hấp hối để răn đe. Như thế, chúng ta có trước mắt một khung cảnh là Đồi Sọ. Chúa Giê-su chẳng có tội tình gì, lại bị đóng đinh giữa hai tên gian phi, hai tội nhân bị kết án tử. Điều này diễn tả về sự nhục nhã hết sức mà Chúa Giê-su phải chịu, nhưng đó là số phận của người tôi trung“đã hiến thân chịu chết, đã bị liệt vào hàng tội nhân” (Is 53,12). Nếu chúng ta lắng nghe cả bài thương khó của Lu-ca, sẽ thấy Chúa đã nhắc lại sấm ngôn này cho các môn đệ, khi ở trên đường từ Bữa Tiệc Ly đến vườn Ô-liu: “Vì Thầy bảo cho anh em hay: cần phải ứng nghiệm nơi bản thân Thầy lời Thánh Kinh đã chép: Người bị liệt vào hàng phạm pháp. Thật vậy, những gì đã chép về Thầy sắp được hoàn tất” (Lc 22,37).

 

Chúa Giê-su bị liệt vào hàng phạm pháp. Nhưng tội gì? Không ai tìm thấy tội tình gì nơi Ngài để kết án được. Chính Phi-la-tô đã lên tiếng tất cả ba lần về sự vô tội của Chúa Giê-su trong Phúc Âm thánh Lu-ca. Lần thứ nhất: “Ta xét thấy người này không có tội gì” (Lc 23,4). Lần thứ hai: “Các ngươi nộp người này cho ta, vì cho là tay kích động dân, nhưng ta đã hỏi cung ngay trước mặt các ngươi, mà không thấy người này có tội gì, như các ngươi tố cáo” (Lc 23,14). Và lần thứ ba: “Nhưng ông ấy đã làm điều gì gian ác? Ta xét thấy ông ấy không có tội gì đáng chết. Vậy ta sẽ cho đánh đòn rồi thả ra” (Lc 23,22). Dân chúng có đồng ý với Phi-la-tô để thả Chúa Giê-su không?

 

Tin Mừng đã cho chúng ta thấy lòng hiểm độc của dân chúng, đến nỗi cuối cùng Phi-la-tô phải lên tiếng: “Ta vô can trong vụ đổ máu người này. Mặc các người liệu lấy!” (Mt 27,24), và sau đó thì sao? “Toàn dân đáp lại: Máu hắn cứ đổ xuống đầu chúng tôi và con cháu chúng tôi!” (Mt 27,25). Thật là dã man và bất nhân biết bao. Thay vì thả Chúa, một người vô tội và là một Ráp-bi tốt lành, thì dân chúng lại tha thứ cho một kẻ giết người, là Ba-ra-ba: “Giết nó đi, thả Ba-ra-ba cho chúng tôi!” (Lc 23,17). Tiếng la hét đầy bạo lực và đượm màu bất nhân, tiếng la hét của lòng người ác độc đẩy Đấng Cứu Thế tới thập giá chỉ dành cho kẻ phạm pháp. Tiếng la hét của thế giới đang bị thần dữ chế ngự và làm chủ. Tiếng la hét của một thế giới từ chối Chúa Giê-su, vị Vua đích thực, để theo một vị Vua trần thế: “Ông Phi-la-tô nói với họ: ‘Chẳng lẽ ta lại đóng đinh vua các người sao?’ Các thượng tế đáp: ‘Chúng tôi không có vua nào cả, ngoài Xê-da’.” (Ga 19,15).

 

Là nạn nhân của sự thù hằn của những người có thế giá trong xã hội và tôn giáo thời đó, Chúa đã bị đẩy vào mảnh đất đầy sỉ nhục và phải đón nhận án tử từ đám đông dân chúng, với sự hậu thuẫn và xúi giục của nhóm người có thế giá. Một mạng lưới bất nhân đã được dệt lên, để bắt cho được kẻ thù không đội trời chung, dù kẻ thù đó là một người vô tội, tốt lành và theo lẽ thường cần được trân trọng và yêu quý. Trước mạng lưới đầy bất nhân này, cả người nắm chính quyền thời đó, dù không thấy tội gì để kết án Chúa, cũng phải chào thua: “Bấy giờ ông Phi-la-tô trao Đức Giê-su cho họ đóng đinh vào thập giá” (Ga 19,16).

Thập giá trên đồi sọ. Chúa Giê-su bị đóng đinh treo lơ lửng trên đó. Con Thiên Chúa xuống thế làm người ngay từ ngày đầu tiên khi chào đời đã ở trong cảnh nghèo nàn của nhân loại, và khi chết đi cũng ở trong cảnh thê lương của nhân loại. Ngài đã sẵn sàng đón nhận tất cả. Sự đón nhận của tình yêu và lời xin vâng. Theo ý Cha một cách triệt để, đến nỗi bằng lòng chết đi và chết trên cây thập tự. Cái chết trên cây thập tự là một cái chết nhục nhã, chỉ dành cho những kẻ gây ra tội ác. Cái chết đó không ai muốn chọn cả. Còn Chúa, dù biết là đau đớn, nhục nhã và bất công, nhưng Chúa vẫn không chạy chốn thập giá trên đồi cao kia. Chân tay Ngài sẵn sàng dang ra, để con người đóng đinh Ngài vào thập giá. Phải chăng Ánh Sáng là Ngài đã thực sự bị bóng đêm thổi tắt? Phải chăng bóng đêm của tội lỗi và của thần dữ đã cướp đi mất Ánh Sáng vĩnh cửu kia? Thập giá đứng sừng sững trên đồi cao. Trong cơn đau đớn tột cùng của thân xác và của tâm hồn, đối diện với những đám lính vừa đóng đinh Ngài, và trong sự hiện diện của đám đông đi theo Ngài trên đường thương khó, Chúa Giê-su vẫn lên tiếng: Lạy Cha, xin tha cho chúng, vì chúng không biết việc chúng đang làm.

Đọc lại lần nữa lời cầu nguyện đầu tiên này, chúng ta ngạc nhiên thấy rằng, Chúa Giê-su đã không cầu nguyện để xin Cha ra tay công bằng xử phạt những kẻ bất nhân hãm hại Ngài, mà Ngài cầu nguyện với Cha, để xin Cha tha thứ cho họ. Đó chính là lô-gic của tình yêu Thiên Chúa. Lôgic này ngược hẳn với tất cả mọi lô-gic của cuộc đời. Đúng thật, sự khôn ngoan của con người không phải là sự khôn ngoan của Thiên Chúa. Ý nghĩ của Thiên Chúa không phải là ý nghĩ của loài người. May thay!

Tha cho họ. Vậy họ là ai? Họ chính là những tên lính La Mã, những người làm theo lệnh của Phi-la-tô đóng đinh Chúa Giê-su cho đến chết. Họ chỉ làm theo mệnh lệnh, nhưng những lời chế nhạo, những đòn roi đã thể hiện sự tàn bạo, sự hung tợn trong chính họ. Họ còn là những đám đông dân chúng bị lầm lạc, bị mê hoặc, những kẻ ấy đã bắt Chúa Giê-su phải chết và ép buộc Phi-la-tô giết Ngài. Bọn người ấy chỉ vài ngày trước đã tung hô Chúa Giê-su là Vua (x.Mc 15,6-14, Mc 11,8-10), còn giờ thì dã tâm giết Chúa trên thập giá. Thật tàn bạo, thật khủng khiếp và thật bất công! Nhưng tất cả mọi sự xấu xa đó không cản bước chân của Đấng Cứu Độ, không làm cho bản chất của Đấng Cứu Độ thay đổi. Bản chất đó là tình yêu tràn đầy tha thứ, mà Chúa Giê-su đã loan báo. Đối với thần học gia Ratzinger, Đức Benedicto XVI, thì: “điều mà Chúa đã rao giảng trong Bài Giảng Trên Núi, Ngài đã thực hiện cách trọn vẹn. Chúa không biết ghen ghét là gì. Ngài không bao giờ hận thù cả. Ngài đã cầu nguyện cho kẻ đóng đinh Ngài”.[xvii]

 

Và “lời cầu nguyện đầu tiên của Chúa Giê-su với Chúa Cha là lời cầu bầu, xin tha thứ cho những lý hình của Người. Với lời này, Chúa Giê-su thực hiện điều mà chính Người đã dạy trong Bài Giảng Trên Núi khi Người nói ‘Nhưng Thầy bảo các con là những người đang nghe Thầy đây, hãy yêu kẻ thù và làm ơn cho những người ghét các con’ (Lc 6,27), và Người cũng đã hứa với những người có thể tha thứ rằng ‘Phần thưởng của các con sẽ thật lớn lao, và các con sẽ là con cái Ðấng Tối Cao’ (Lc 6,35). Bây giờ, từ trên Thánh Giá, Người không những chỉ tha thứ cho những kẻ hành quyết Người, mà còn trực tiếp thưa với Chúa Cha để cầu bầu cho họ”.[xviii]

Tiếp đến, vế thứ hai của lời cầu nguyện là vì họ không biết việc họ làm. Nhưng làm sao Chúa Giê-su lại có thể nói họ không biết việc họ làm? Theo một góc độ nào đó thì họ phải biết việc họ đang làm, nhưng họ không nhận ra điều đó là tội ác tày trời. Đó chính là giết chết Con Một của Thiên Chúa. Nếu suy niệm kỹ lời này, chúng ta thấy, trong lời cầu xin Chúa Cha tha thứ tội lỗi cho những kẻ quay lưng lại với Ngài, những kẻ thi hành án tử hình, Chúa Giê-su đã thực sự biện hộ cho họ, và đó cũng là một cách minh chứng hùng hồn nhất rằng, điều Ngài đã dạy là hoàn toàn có thể: “Hãy yêu kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi anh em” (Mt 5,44). Biết bao nỗi tủi nhục và đau đớn mà bọn lính La Mã đã gây ra cho Ngài, Ngài vẫn tha thứ cho họ. Ngài thậm chí còn tha thứ cho những kẻ quay lưng lại với Ngài. Đức Benedicto XVI đã suy niệm vế thứ hai này như sau: “Thực ra, theo lời Người, thì với những kẻ đóng đinh Người không biết việc chúng làm (x.Lc 23,34), Người đặt sự thiếu hiểu biết, sự ‘vô minh’ của họ như động lực của việc Người xin Chúa Cha tha thứ, bởi vì sự thiếu hiểu biết này mở đường cho việc hoán cải, như trường hợp những lời mà viên đội trưởng sẽ công bố về cái chết của Chúa Giê-su: ‘Người này thật sự là người công chính! Người này là Con Thiên Chúa’. Vẫn là một sự an ủi cho mọi thời đại và cho mọi người rằng trong trường hợp những kẻ không thực sự biết Người, những lý hình của Người, và trong trường hợp những kẻ biết, những kẻ kết án Người, Chúa dùng sự thiếu hiểu biết như lý do để xin tha thứ cho họ: Người coi nó như một cánh cửa có thể mở lòng chúng ta ra mà hoán cải”.[xix]

 

Khi chúng ta, các tín hữu ý thức sống lời sống này của Chúa Giê-su, lời sống yêu thương và tha thứ cho kẻ thù, thì chúng ta đang bước vào không gian của Bài Giảng Trên Núi, nghĩa là chúng ta vượt ra khỏi tinh thần cũ “mắt đền mắt, răng đền răng” (Xh 21,24) của Cựu Ước, và sống tinh thần của Tân Ước, qua đó thực hiện sự công chính một cách hoàn hảo nhất:“Vậy, Thầy bảo cho anh em biết, nếu anh em không ăn ở công chính hơn các kinh sư và người Pha-ri-sêu, thì sẽ chẳng được vào Nước Trời” (Mt 5,20).

Đọc lại câu chuyện Tê-pha-nô bị ném đá, với sự hiện diện của Sao-lô, sau này trở lại và trở thành vị Tông Đồ dân ngoại, chúng ta thấy được tâm tình cao quý của Tê-pha-nô: “Họ ném đá ông Tê-pha-nô, đang lúc ông cầu xin rằng: ‘Lạy Chúa Giê-su, xin nhận lấy hồn con’. Rồi ông quỳ gối xuống, kêu lớn tiếng: ‘Lạy Chúa, xin đừng chấp họ tội này’. Nói thế rồi, ông an nghỉ” (Cv 7,59-60). Đức Benedicto XVI đã suy niệm biến cố này như sau: “Đây là lời cuối cùng của ông. Sự so sánh giữa lời cầu nguyện xin tha thứ của Chúa Giê-su với lời cầu nguyện của vị tử đạo là điều đầy ý nghĩa. Thánh Tê-pha-nô thưa chuyện với Chúa Phục Sinh và xin Chúa đừng quy tội cho những kẻ ném đá ông khi nói về việc người ta giết ông - một hành động được xác định rõ ràng bằng thuật ngữ ‘tội này’. Trên Thánh Giá, Chúa Giê-su thưa cùng Chúa Cha và không những chỉ xin tha thứ cho những kẻ đóng đinh Người, nhưng còn giải thích về những gì đang xảy ra”.[xx]

Thánh Âu-tinh đã diễn tả rất hay về mẫu gương tha thứ đặc biệt của thánh Tê-pha-nô, và ngài khuyên bảo mọi người nhìn vào tấm gương thánh nhân, một người dù bị ném đá như mưa nhưng vẫn cầu nguyện cho những kẻ đang giết mình: “Họ thì ném đá mà chẳng hề xin ngài thứ tha, còn ngài thì cầu nguyện cho họ. Đó chính là thái độ mà tôi muốn anh em nhìn xem. Hãy cố gắng vươn tới mức đó. Đừng để lòng mình cứ sà sà mặt đất hoài. Hãy nâng tâm hồn lên! Vâng, hãy leo cao tới mức đó. Hãy yêu thương thù địch. Vì nếu anh em không tha, thì tôi xin nói, chẳng những anh em đã xoá sạch khỏi lòng mình bài Kinh Chúa dạy, mà chính anh em cũng sẽ bị xoá tên khỏi sách sự sống”.[xxi] Lời của thánh Âu-tinh là một lời nhắc nhớ chúng ta ý thức sống tinh thần tha thứ. Khi sống tinh thần tha thứ, thì chúng ta, những người con cái dưới đất thấp này, có thể bước trên hành trình nên hoàn thiện, như lòng ao ước của Đức Ki-tô: “Vậy anh em hãy nên hoàn thiện, như Cha anh em trên trời là Đấng hoàn thiện” (Mt 5,48). Hoàn thiện là một con đường dài của đời người, cũng thế, tha thứ là bài tập cho cả cuộc đời.

Một mẫu gương mới là thánh Giáo Hoàng Gio-an Phao-lô II. Ngày 13.05.1981, tại quảng trường thánh Phê-rô, Ali Agca – một sát thủ người Thổ Nhĩ Kỳ, đã nhắm vào Đức Thánh Cha và bóp cò. Một tiếng nổ chát chúa đã vang lên, Đức Thánh Cha đã bị trọng thương. Sau khi hồi phục, Đức Gio-an Phao-lô II nói: “Tôi luôn cầu nguyện cho người anh em đã bắn vào tôi”. Vào năm 1983, Đức Gio-an Phao-lô II đã đến tận nhà tù, để thăm viếng và tha thứ cho Ali Agca. Trong một lá thư định gửi cho anh Ali Agca, Đức Thánh Cha viết: “Tại sao anh lại bắn tôi khi cả hai chúng ta đều tin vào sự hiện hữu của một Thiên Chúa duy nhất”. Vào đại năm thánh 2000, ngài đã xin Tổng Thống Ý cho anh được ân xá.

 

Thật vậy, Đức Gio-an Phao-lô II đã được mọi người nhắc đến với lòng thương xót, như là một nét đặc biệt của ngài. Đức Hồng Y Schoenborn, trong tác phẩm Wir haben Barmherzigkeit gefunden – Chúng ta đã tìm thấy lòng thương xót, đã có một chương nói về Gio-an Phao-lô II - Đức Thánh Cha của lòng thương xót. Vào Chúa Nhật Phục Sinh 2005, Đức Gio-an Phao-lô II xuất hiện tại cửa sổ phòng của ngài và đã ban lời huấn từ trong ngày Chúa Phục Sinh, nhưng đó chỉ là một cử chỉ chúc lành đơn sơ không có lời nói. Ngài đã tỏ lộ một khuôn mặt đau đớn của tuổi già, nhưng tràn đầy tấm lòng nhân từ của một vị Cha chung đang chúc lành cho đoàn con. Đức Hồng Y Schoenborn đã thấy hình ảnh đó, và mong cho Đức Gio-an Phao-lô II có thể sống cho đến ngày Chúa Nhật Lòng Chúa Thương Xót năm 2005. Điều ước mong này đã trở thành hiện thực, vào tối thứ bảy lúc 20.00, trước ngày lễ Chúa Nhật Lòng Chúa Thương Xót, thư ký riêng của Đức Gio-an Phao-lô II, hiện giờ là Đức Hồng Y Stanislaw Dziwizs, đã dâng lễ cho Đức Gio-an Phao-lô II ngày Chúa Nhật Lòng Chúa Thương Xót. Đức Gio-an Phao-lô II đã đón nhận một vài giọt máu Thánh và được rước Chúa Thánh Thể lần cuối cùng. Lúc 21.37, Đức Gio-an Phao-lô II đã trở về với Thiên Chúa, Đấng là nguồn của lòng thương xót. Năm 1997, khi ngài thăm Lagiewniki, nơi thánh Faustina Kowalska đã sống, thánh Giáo Hoàng Gio-an Phao-lô II đã nói rằng: “Sứ điệp của lòng Chúa thương xót một cách nào đó đã ảnh trong triều đại Giáo Hoàng của tôi”.[xxii]

Về tinh thần yêu thương và tha thứ cho kẻ thù, cũng có một giai thoại rất thú vị mà cha Arrupe đã trải nghiệm trong dịp ngài ghé thăm một tỉnh Dòng Tên ở Châu Mỹ La Tinh. “Cách đây vài năm, tôi có đến thăm Tỉnh Dòng Tên ở châu Mỹ La-tinh. Với một chút e ngại, người ta mời tôi dâng lễ ở ngoại ô, trong một khu dân cư nghèo nhất. Họ cho tôi biết có khoảng 100.000 người sống trong đầm lầy, vì vùng ngoại ô này được xây dựng trên một vùng đất trũng, mỗi lần mưa đều bị ngập hoàn toàn. Tôi nhận lời ngay, vì kinh nghiệm cho tôi biết khi thăm những người nghèo khổ, ta học hỏi được nhiều điều: ta làm ơn cho họ nhưng họ cũng dạy ta nhiều bài học. Thánh Lễ được cử hành trong một ngôi nhà nhỏ trống trải và ọp ẹp, không cửa rả: chó mèo ra vào tự do. Thánh Lễ bắt đầu với bài thánh ca do một tay ghi-ta xoàng đệm nhạc, nhưng đối với tôi, nó thật tuyệt! Nội dung bài hát là ‘Yêu là tự hiến bằng cách quên mình và tìm kiếm những gì khiến người khác được hạnh phúc. Sống vì yêu thương đẹp biết bao! Chiếm hữu để rồi cho đi, cao thượng dường nào! Cho đi niềm vui và hạnh phúc, cho đi bản thân mình, yêu là thế đấy!... Nếu bạn yêu tha nhân như chính mình và nếu bạn hiến thân cho tha nhân bạn sẽ thấy không có ích lợi nào mà bạn muốn giữ lại cho mình. Sống vì yêu thương, ôi đẹp biết bao!’ …

Bài giảng của tôi ngắn ngủi, đúng hơn đó chỉ là một cuộc đối thoại: họ đã kể cho tôi nghe những điều mà tôi ít có khi được nghe trong các bài giảng trọng thể, những điều hết sức đơn sơ nhưng sâu sắc và cao siêu. Một bà cụ, dáng người nhỏ bé, nói với tôi: ‘Thưa cha, cha có phải là bề trên của các cha này không? Nếu đúng vậy thì ngàn lần cám ơn cha, vì các cha Dòng Tên đã cho chúng con kho tàng quý giá chúng con đang thiếu, đã cho chúng con điều chúng con cần nhất là Thánh Lễ’.

Tiếp theo là một anh thanh niên đứng lên thành kính thưa rằng: ‘Thưa cha, xin cha hiểu cho chúng con rất biết ơn cha, vì các cha đây đã dạy cho chúng con biết yêu thương kẻ thù. Cách đây một tuần, con thủ sẵn một con dao để giết mấy người bạn mà con căm ghét. Nhưng sau khi nghe cha giảng Phúc Âm, con đã đi mua một cây cà-rem và đem cho người bạn con căm ghét đó!’.”[xxiii]

 

[i] X. STRACK H.L., und BILLERBECK P., Das Evangelium nach Matthaeus, I Band, C.H.Beck Verlag, Muenchen 1922, t.421.

[ii] JEREMIAS J., Das Vater Unser, Calwer Hefter 50, Calwer Verlag, Stuttgart 1962, t.25.

[iii] X. GNILKA Joachim, das Matthaeusevangelium, teil 1, t.225.

[iv] HUBAUT M., Dieu, mon père et votre père, Desclée de Brouwer, Paris 1999, t.117.

[v] HAAG E., Das Buch Jeremia, teil II, 1. Aufl., Patmos Verlag, Düsseldorf 1977, t.105-108.

[vi] X. Martini C., Le Notre Pere, t.41.

[vii] X. BONHOEFFER D., Gesammelte Schriften, IV. Band, 3.Aufl., CHR. Kaiser Verlag, München 1975, t. 402-403.

[viii] X. TRILLING W., Das Evangelium nach Matthaeus, Geistliche Schriftlesung, 1. Teil, Patmos Verlag, Duesseldorf 1962, t.118-119.

[ix] Trích trong Sách Giáo Lý của Hội Thánh Công Giáo, số 2845, t.789.

[x] X. HUBAUT M., Dieu, mon père et votre père, t.118.

[xi] X. GUILLET J., trong “Dictionnaire de Spiritualité”, Tome XII, Beauchesne, Paris 1984, c.213-14.

[xii] X. KASPER W., Barmherzigkeit, t.139-140.

[xiii] X. KASPER W., Barmherzigkeit, t.141 và x. LUZ U., Das Evangelium nach Matthaeus, 1.Teilband, s.316-317.

[xiv] X. KASPER W., Barmherzigkeit, t.141-142.

[xv] Thiền sư Bhante Henelopa Gunaratana, Eight Mindful Steps to Hapinness – Bát chánh Đạo – con đường đưa đến hạnh phúc, t.84-85.

[xvi] Thiền sư Bhante Henelopa Gunaratana, Eight Mindful Steps to Hapinness – Bát chánh Đạo – con đường đưa đến hạnh phúc, t. 85-88.

[xvii] RATZINGER J., Benedikt XVI, Jesus von Nazareth II, t.230.

[xviii] BENEDIKT XVI, Bài Giáo Lý thứ 27 về cầu nguyện, ban hành ngày Thứ Tư mùng 15 tháng 2 năm 2012, tại Vatican. Bản tiếng Việt của Phao-lô Phạm Xuân Khôi trong <http://www.giaoly.org>

[xix] BENEDIKT XVI, Bài Giáo Lý thứ 27 về cầu nguyện.

[xx] BENEDIKT XVI, Bài Giáo Lý thứ 27 về cầu nguyện.

[xxi] Trích bởi HAMMAN Adalbert G., trong Abrégé de la prière chrétienne, t.63-64.

[xxii] X. SCHOENBORN C., Wir haben Barmherzigkeit gefunden, Herder Verlag, Freiburg 2009, t.19-20.

[xxiii] ARRUPE, P. SJ., Loạt bài chia sẻ Thánh Thể trong đời tôi. Bài 7. Chúa Giê-su thích người nghèo hơn. Nguồn: dongten.net

bottom of page