top of page

- Bước vạn dặm của Đấng giàu lòng thương xót.

 

Khi chiêm ngắm và suy niệm mầu nhiệm Giáng Sinh, chúng ta thấy rằng lòng thương xót của Chúa không chỉ hệ tại ở việc cúi xuống nhìn đến nhân loại nghèo nàn và khổ đau, và ban cho họ những món quà họ cần đến. Lòng thương xót của Chúa vượt xa hơn nữa. Vì thương xót nhân loại, mà Ngài đã bước vạn dặm đến với con người. Bước vạn dặm đó mang tính cách rất hiện sinh, nghĩa là Ngài không ngồi trên trời cao thẳm, để ban xuống cho nhân loại ơn này hay ơn nọ, giúp họ thoát khỏi khổ đau, mà Thiên Chúa có bước đi riêng của Ngài, như thánh Phao-lô diễn tả:

“Đức Giê-su Ki-tô
vốn dĩ là Thiên Chúa
mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì
địa vị ngang hàng với Thiên Chúa,

nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang
mặc lấy thân nô lệ,
trở nên giống phàm nhân
sống như người trần thế.

Người lại còn hạ mình,
vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết,
chết trên cây thập tự” (Pl 2, 6-8).

 

Thánh Bê-na-đô đã xác tín rằng, Thiên Chúa đã trở thành người với một lý do, là Ngài thực sự muốn tỏ lòng thương xót đối với con người. Thánh Bê-na-đô còn đi xa hơn: Thiên Chúa sẽ không bao giờ hiểu thấu con người, nếu Thiên Chúa không bao giờ biết và trải nghiệm được nỗi đau từ bên trong. Ngoài ra, Thiên Chúa đã yêu thương con người đến nỗi, Ngài không thể làm gì khác hơn, là Ngài sẵn sàng chia sẻ với con người tất cả mọi sự, kể cả khổ đau.[i]

Về điều này, Đức Benedicto XVI đã suy niệm rất tuyệt vời, xin đọc lại lần nữa: “Thiên Chúa thật lớn lao, đến nỗi Ngài có thể trở nên nhỏ bé. Thiên Chúa thật quyền năng, đến nỗi Ngài có thể trở nên bất lực và trở nên một trẻ sơ sinh và đến với với chúng ta, để chúng ta có thể yêu mến Ngài. Thiên Chúa thật tốt lành, đến nỗi Ngài đã từ bỏ vinh quang của Thiên Chúa, Ngài đi xuống thế gian và hiện diện trong hang lừa, để chúng ta có thể tìm thấy Ngài, và để sự tốt lành của Ngài đụng đến chúng ta, lây lan đến chúng ta, và qua chúng ta sự tốt lành của Ngài tiếp tục ảnh hưởng. Đó là Giáng Sinh. ‘Con là Con của Cha, hôm nay Cha đã sinh ra Con’. Thiên Chúa đã trở nên một người ở giữa chúng ta, để chúng ta có thể được sống với Ngài, có thể trở nên giống như Ngài. Ngài đã chọn hình hài của trẻ sơ sinh trong máng cỏ như là dấu hiệu giúp chúng ta nhận ra Ngài: Đó là Chúa. Chúng ta quen biết Chúa qua Hài Đồng nhỏ bé này”.[ii]

Đó là bước vạn dặm của Thiên Chúa, bước vạn dặm của tình yêu bao la, bước vạn dặm của lòng thương xót vô bờ đi xuống với con người nghèo khổ của chúng ta, để cùng chia sẻ cái nghèo với chúng ta. Điều này vượt trên mọi lô-gíc của nhân loại, và chúng ta không bao giờ hiểu thấu. “Tôi muốn viết cho bạn về tình yêu của Thiên Chúa được thể hiện rõ ràng trong Chúa Giê-su. Nhưng tình yêu đó được thể hiện như thế nào qua Chúa Giê-su? Tình yêu đó được thực hiện trong con đường đi xuống. Đó là một mầu nhiệm lớn lao của việc nhập thể. Thiên Chúa đã đi xuống với chúng ta - những phận người, và Ngài đã mặc lấy phận người với chúng ta, một con người ở giữa chúng ta. Ngài đi xuống tới nơi mà phận người bị bỏ rơi và bị kết án tử. Từ trong chiều sâu, không dễ dàng để hiểu được và cảm nhận được con đường đi xuống này của Chúa Giê-su. Thật vậy, mọi thớ thịt trong chúng ta đều chống lại điều đó. Chúng ta không nghĩ rằng mình phải luôn luôn chú ý tới nghèo khổ. Còn con đường đi xuống tới nơi nghèo khổ và trở nên một người nghèo với người nghèo, chúng ta không bao giờ muốn. Nhưng đó là con đường mà Chúa Giê-su đã chọn…Đó là con đường của tình yêu Thiên Chúa. Con đường đi xuống xa hơn và xa hơn nữa, để đi vào bên trong cảnh cơ cực nghèo hèn nhất”.[iii] Đó là bước vạn dặm của tình yêu, mà Thiên Chúa có thể làm, vì không có gì là không thể đối với Thiên Chúa - nothing is impossible with God. (x.Lc 1,37).

Bonhoeffer cũng đã cảm nhận cách sâu sắc bước vạn dặm này của Chúa Giê-su giàu lòng thương xót: “Ngài đã không xấu hổ với ai cả, và Ngài trở nên một người anh em của mọi người. Ngài đã vác những cùng cực khổ đau của con người, Ngài vác cho đến lúc chết trên Thánh Giá. Đó là lòng thương xót của Chúa Giê-su…Chúa đã tự mình cúi xuống thật xâu để đến với nhân loại, và đã tự mình đón nhận mọi tội lỗi và khổ đau của nhân loại. Chúa đã ban tặng cho nhân loại chính vinh quang của Ngài, và đón nhận từ con người sự bất xứng. Vinh quang của Chúa được tỏ hiện qua việc Chúa mang vác những nặng nề và xấu xa của những con người tội lỗi, và đã mặc cho họ chính vinh quang của Ngài”.[iv] Với bước vạn dặm của tình yêu, của lòng thương xót, Chúa Giê-su đã chia sẻ và đồng hành với con người cuộc sống trên trần gian, qua chính lời rao giảng về lòng thương xót và đời sống luôn tương hợp với sứ điệp cao quý đó.

 

- Chúa Giê-su rao giảng và sống tinh thần lòng thương xót của Chúa Cha.

 

Phúc Âm thánh Mác-cô bắt đầu với sự chú ý: “Khởi đầu Tin Mừng Đức Giê-su Ki-tô, Con Thiên Chúa” (Mc 1,1). Mác-cô bêu bật một điều mới xuất hiện và tóm tắt sứ điệp của toàn bộ Tin Mừng qua lời rao giảng của Chúa Giê-su: “Thời kỳ đã mãn, và Triều Đại Thiên Chúa đã đến gần” (Mc 1,14). Với biến cố giáng trần của Chúa Giê-su, thời gian biến chuyển đã được tiên báo, và thời gian mà nhiều người mong chờ đã đến. Đó là thời gian Nước Trời, Triều đại Thiên Chúa lên đường và đến gần. Nước Trời đến với sự chữa lành những người đau yếu của mọi thứ bệnh hoạn. Nước Trời đến với sức mạnh tuyệt đối xua đuổi ma quỷ và sự dữ, kẻ gây ra biết bao đau khổ và bất hạnh cho cuộc sống của con người.

 

Thánh Lu-ca còn nêu rõ hơn nữa, khi ngài diễn tả hình ảnh Chúa Giê-su giảng trong hội đường ở Na-da-rét: “Rồi Đức Giê-su đến Na-da-rét, là nơi Người sinh trưởng. Người vào hội đường như Người vẫn quen làm trong ngày sa-bát, và đứng lên đọc Sách Thánh. Họ trao cho Người cuốn sách ngôn sứ I-sai-a. Người mở ra, gặp đoạn chép rằng: Thần Khí Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, để tôi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn. Người đã sai tôi đi công bố cho kẻ bị giam cầm biết họ được tha, cho người mù biết họ được sáng mắt, trả lại tự do cho người bị áp bức, công bố một năm hồng ân của Chúa. Đức Giê-su cuộn sách lại, trả cho người giúp việc hội đường, rồi ngồi xuống. Ai nấy trong hội đường đều chăm chú nhìn Người. Người bắt đầu nói với họ: ‘Hôm nay đã ứng nghiệm lời Thánh Kinh quý vị vừa nghe’. Mọi người đều tán thành và thán phục những lời hay ý đẹp thốt ra từ miệng Người” (Lc 4,16-22). Thánh Lu-ca đã nêu bật được hình ảnh của Chúa Giê-su với sứ mạng của cao quý của Ngài, sứ mạng đến để đem Tin Mừng lòng thương xót của Thiên Chúa dành cho muôn người, đặc biệt là những người nghèo khổ và bất hạnh.

Trong Tin Mừng của thánh Mát-thêu, chúng ta tìm thấy một đoạn tương tự. Khi các môn đệ của Gio-an Tẩy Giả đến với Chúa Giê-su và hỏi Ngài, Ngài có phải là Đấng cần đến không. Chúa Giê-su đã liên hệ đến một câu trong sách của tiên tri I-sai-a 61,1 để diễn tả: “Các anh cứ về thuật lại cho ông Gio-an những điều mắt thấy tai nghe: Người mù xem thấy, kẻ què được đi, người cùi được sạch, kẻ điếc được nghe, người chết sống lại, kẻ nghèo được nghe Tin Mừng, và phúc thay người nào không vấp ngã vì tôi” (Mt 11,4-6). Sứ mạng của Chúa Giê-su trong Phúc Âm Mát-thêu là sứ mạng trao ban lòng thương xót của Thiên Chúa cho nhân loại, lòng thương xót có sức chữa lành và nâng đỡ. Cũng trong tinh thần này, Đấng Mê-si-a luôn luôn chú ý đến những người nghèo khổ, những người đang cần đến sự giúp đỡ và những anh chị em nhỏ bé không được chú ý tới.

Như thế, theo tinh thần của các tác giả của Tin Mừng nhất lãm, chúng ta đọc được sự chú ý quan tâm của Chúa Giê-su dành cho những người nghèo khổ và thấp cổ bé miệng: “Phúc thay ai có tâm hồn nghèo khó, vì Nước Trời là của họ” (Mt 5,3) và “Phúc cho anh em là những kẻ nghèo khó, vì Nước Thiên Chúa là của anh em” (Lc 6, 20). Với Mối Phúc này, Chúa Giê-su không chỉ hướng đến người nghèo về vật chất, mà Ngài hướng đến tất cả những người bất hạnh và phải gồng gánh nặng nề ở trong mọi phương diện. “Tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến cùng tôi, tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng” (Mt 11,28).

Đến đây, chúng ta nên để Đức Phanxicô hướng dẫn chúng ta chiêm ngắm dung mạo thương xót của Chúa Giê-su qua tông sắc về năm Thánh lòng thương xót của Thiên Chúa: “Thiên Chúa là tình yêu (1Ga 4,8.16), Thánh Gioan khẳng định như thế lần đầu tiên và cũng là lần duy nhất trong toàn bộ Kinh Thánh. Tình yêu này đã được thể hiện hữu hình và đụng chạm được trong toàn bộ cuộc sống của Chúa Giêsu. Nhân tính của Ngài không gì khác hơn là tình yêu, một tình yêu được trao ban nhưng không. Các mối quan hệ Chúa hình thành với những người tiếp cận Ngài thể hiện một điều gì đó hoàn toàn độc đáo và không thể lặp lại được. Các dấu chỉ Ngài thực hiện, đặc biệt trước những kẻ tội lỗi, người nghèo, người bị gạt ra ngoài lề, người bệnh, và những người đau khổ, tất cả đều nhằm giảng dạy về lòng thương xót. Mọi thứ nơi Ngài nói lên lòng thương xót. Không có gì nơi Ngài thiếu vắng lòng từ bi.

Chúa Giêsu, khi nhìn thấy đám đông dân chúng theo Ngài, nhận ra rằng họ đã quá mệt mỏi và kiệt sức, lầm lạc và không ai chăn dắt, đã chạnh lòng thương cảm sâu xa đối với họ (x.Mt 9,36). Trên cơ sở của tình yêu từ bi này, Ngài chữa lành những kẻ đau yếu được mang đến với Ngài (x.Mt 14,14), và chỉ với một vài cái bánh và một ít cá, Chúa đã làm hài lòng đám đông khổng lồ (x.Mt 15,37). Điều làm Chúa Giêsu chạnh lòng trong tất cả các tình huống này không gì khác hơn là lòng thương xót, nhờ đó Ngài đọc được trái tim của những người Ngài gặp gỡ và đáp ứng nhu cầu sâu xa nhất của họ. Khi Ngài gặp bà góa thành Naim đem con mình đi chôn, Ngài chạnh lòng thương xót trước những đau khổ bao la của người mẹ đau khổ này, và Ngài đã cho kẻ chết sống lại để trao người con lại cho bà (x.Lc 7,15). Sau khi giải phóng cho người bị thần ô uế ám tại miền quê Ghêrasa, Chúa Giêsu trao cho anh ta nhiệm vụ này: ‘Anh cứ về nhà với thân nhân, và loan tin cho họ biết mọi điều Chúa đã làm cho anh, và Người đã thương anh như thế nào’ (Mc 5,19). Chúa cũng đã kêu gọi ông Mátthêu trong bối cảnh của lòng thương xót. Khi đi ngang qua cái quầy của người thu thuế, Chúa Giêsu nhìn chăm chú vào Mátthêu. Đó là một cái nhìn đầy lòng thương xót tha thứ cho những tội lỗi của người này, một kẻ có tội và là người thu thuế, mà Chúa Giêsu đã chọn – bất kể sự do dự của các môn đệ - để trở thành một trong số mười hai. Thánh Bede Đáng Kính, khi bình luận về đoạn Tin Mừng này, đã viết rằng Chúa Giêsu đã nhìn Mát-thêu với tình yêu thương xót và đã chọn ông: miserando atque eligendo. Thành ngữ này gây ấn tượng mạnh cho tôi đến mức tôi đã chọn làm khẩu hiệu giám mục của mình” (số 08).

 

Chiêm ngắm Chúa Giê-su, chúng ta thấy Ngài là một Thầy dạy đúng nghĩa trọn vẹn, nên lời giảng của Chúa Giê-su luôn đi đôi với đời sống của Ngài. Lời và đời sống là một nơi Chúa Giê-su. Ngài đã sống tinh thần lòng thương xót của Thiên Chúa cách sống động. Ngài đã chữa lành cho người bị thần ô uế ám, Ngài đã thương nhìn đến và lắng tai nghe người đui mù hành khất kêu xin. Ngài đã tự mình mời người phụ nữ còng lưng đang nghe Ngài giảng trong hội đường ra giữa mọi người, để chữa lành cho bà và trả lại cho bà sự thẳng đứng của cuộc đời. Ngài đã cảm nhận được sự khổ đau tột bậc không chỉ của thân xác, mà cả tinh thần của người phong hủi và đã đáp lời anh, khi anh lên tiếng: “Nếu Ngài muốn, Ngài có thể làm cho tôi được sạch”. Đặc biệt, lòng thương xót được Chúa dành cho những người tội lỗi có lòng ăn năn hối cải: “Người khoẻ mạnh không cần thầy thuốc, người đau ốm mới cần. Tôi không đến để kêu gọi người công chính, mà để kêu gọi người tội lỗi” (Mc 2,17).

Người phụ nữ tội lỗi nổi tiếng trong thành, đứng đàng sau sát chân Chúa và khóc. Giọt nước tuôn trào trên đôi chân Chúa. Ngài không rút chân lại, mà Ngài vẫn để vậy, đến nỗi những giọt nước mắt kia làm ướt đẫm chân Chúa. Không chỉ thế, người phụ nữ quỳ xuống và dùng mái tóc để lau chân Chúa. Chân Ngài vẫn không rút lại. Đôi chân ướt đẫm các giọt nước mắt thống hối ăn năn giờ cần được lau khô. Lòng thương xót của Thiên Chúa không bao giờ chỉ dừng lại ở những giọt nước mắt ăn năn. Nước mắt cần chảy đấy. Nhưng chảy rồi, nước mắt cần được lau khô, được lau sạch, để dọn chỗ cho lòng thương xót tràn đầy sự tha thứ của Chúa. Cũng nổi tiếng tội lỗi, Gia-kêu, một tay thu thuế tham lam, khi gặp Chúa và chính Ngài muốn đến nhà của ông, vì hôm nay ơn cứu độ và lòng thương xót của Chúa cần đến thăm ông, để tha thứ, để thánh hoá và để dọn cho ông một con đường mới. Khi bị treo trên cây Thánh Giá, lòng thương xót của Chúa Giê-su vẫn không hề tắt. Ngài đã lên tiếng với kẻ tử tội có lòng thống hối ăn năn: “Tôi bảo thật anh, hôm nay, anh sẽ được ở với tôi trên Thiên Đàng” (Lc 23,43).

 

Lòng nhân hậu của Chúa Giê-su với người trộm lành diễn tả mạnh mẽ lời của Chúa nói trong Phúc Âm của thánh Mát-thêu:“Hãy về học cho biết ý nghĩa của câu này: ‘Ta muốn lòng nhân chứ đâu cần lễ tế. Vì tôi không đến để kêu gọi người công chính, mà để kêu gọi người tội lỗi’.” (9,13). Đó là câu trả lời của Giê-su trước lời chỉ trích của người Pha-ri-sêu. Họ không hiểu được tại sao Chúa Giê-su lại có thể ngồi ăn chung với người thu thuế và tội lỗi. Sự gần gũi và chú ý đến người đau yếu, nhỏ bé và tội lỗi làm nổi bật tinh thần xót thương nhân hậu của Thiên Chúa dành cho con người, đặc biệt những người thấp cổ bé miệng.

 

Cũng gần giống như vậy: “Nếu các ông hiểu được ý nghĩa của câu này: Ta muốn lòng nhân chứ đâu cần lễ tế, ắt các ông đã chẳng lên án kẻ vô tội” (Mt 12,7). Chúa Giê-su đã đặt lại vấn đề với những người mắng các môn đệ của Ngài, khi các ông bứt lúa ăn trong ngày Sa-bát. Việc phạm lỗi trong ngày Sa-bát chính là điểm chính gây ra tranh cãi. Nhưng thật cương quyết, Chúa đã bênh vực cho các môn đệ của mình. Một lần nữa Ngài đã nêu bật tinh thần căn bản và nền tảng mà Cựu Ước luôn coi là quan trọng: Lòng thương xót thì quan trọng hơn tất cả những nghi thức, và sự xót thương thì có giá trị cao quý hơn việc tuân theo luật của ngày Sa-bát.

 

Xót thương trong những đoạn vừa nêu nói về những tinh thần: “cảm thông”, “cùng chia sẻ những đau khổ”, “từ bỏ việc kết án người khác”. Xót thương là một thái độ căn bản trong tương quan với anh chị em, với tha nhân bên cạnh. Xót thương cần được biểu lộ rõ ràng trong cách hành xử của người với người, ngay trong ngày thường, đặc biệt thái độ và hành động cần có với anh chị em rơi vào hoàn cảnh khó khăn. Xót thương như thế nào, chúng ta đọc được trong Mát-thêu 25,35-36:

“Vì xưa Ta đói, các ngươi đã cho ăn;

Ta khát, các ngươi đã cho uống;

Ta là khách lạ, các ngươi đã tiếp rước;

Ta trần truồng, các ngươi đã cho mặc;

Ta đau yếu, các ngươi đã thăm viếng;

Ta ngồi tù, các ngươi đến hỏi han”.

 

Chúa Giê-su đòi hỏi chúng ta sống tinh thần nhân hậu xót thương. Ngài muốn rằng, chúng ta với sức của mình phải dấn thân cho những anh chị em nghèo khổ và ở trong hoàn cảnh éo le. Những anh chị em đau khổ được kể trong danh sách ở trên đang cần đến sự chú ý và tấm lòng cùng bàn tay nhân hậu của chúng ta. Đó chính là một sự gợi ý rất cụ thể cho chúng ta biết phải sống tinh thần xót thương mà Mối Phúc thứ năm này nhắc tới.

Ngoài ra, những việc làm nhân hậu xót thương là sự diễn tả của thái độ nền tảng bên trong của chúng ta. Vì vậy, mà Chúa Giê-su cũng cảnh báo chúng ta trong Bài Giảng Trên Núi rằng: “Vậy khi bố thí, đừng có khua chiêng đánh trống, như bọn đạo đức giả thường biểu diễn trong hội đường và ngoài phố xá, cốt để người ta khen. Thầy bảo thật anh em, chúng đã được phần thưởng rồi. Còn anh, khi bố thí, đừng cho tay trái biết việc tay phải làm, để việc anh bố thí được kín đáo. Và Cha của anh, Đấng thấu suốt những gì kín đáo, sẽ trả lại cho anh” (Mt 6, 2-4).[v]

 

Như thế, lời giảng và thái độ của Chúa Giê-su với những người bất hạnh chan chứa tinh thần của lòng thương xót vô bờ của Thiên Chúa đối với con người, và lòng thương xót của Thiên Chúa được loan báo cho tất cả mọi người, không loại trừ bất cứ ai. Không chỉ dành cho một số ít người đạo đức và công chính, mà Chúa Giê-su đã mở cánh cửa lòng thương xót cho tất cả mọi hạng người. Chỗ trong Nước Trời được dành cho mọi người. Không có ai bị loại bỏ cả. Thiên Chúa đã thực sự lấy lại sự giận dữ của Ngài, và Ngài đã tạo nên một không gian của lòng thương xót, của tình yêu vô bờ bến.[vi]

Đức cố Hồng Y Albert Decourtray, Tổng Giám Mục Lyon, thành viên Hàn Lâm Viện Pháp Quốc, có một bài giảng rất hay với tựa đề Chúa Giê-su và sự tôn trọng người khác, nêu bật hình ảnh của Chúa Giê-su Ki-tô giàu lòng thương xót:

 

“Không hề có ai tôn trọng người khác như Con Người ấy.

Đối với Người ấy, kẻ khác luôn vượt lên trên và cao quí hơn điều mà các tiền kiến muốn gán cho họ, dẫu đó là định nghĩa của các kẻ làm văn hóa hay bậc thông hiểu lề luật. Người ấy luôn thấy nơi ông hay bà mà Người gặp một chốn hy vọng, một lời hứa sống động, một kẻ có thể phi thường, một người được Chúa gọi để thực hiện một ngày mai tươi sáng, vượt lên trên và bất chấp những giới hạn, tội lỗi và đôi khi là những tội ác của họ.

Có lúc, Người còn nhìn vào thực trạng ấy để mặc khải một sự lạ lùng bí ẩn, để suy niệm và tạ ơn!

Người ấy không nói: Bà ấy lung tung, nhẹ dạ, ngu ngốc, bà cứ mãi xếp nếp theo thói đạo hạnh và tôn giáo địa phương hạn hẹp, ấy cũng chỉ là một thứ đàn bà! Nhưng Ngài đến xin bà một ly nước và khởi đầu bắt chuyện với bà.

Người ấy không nói: Đây là một loại gái hư, một thứ đàn bà bán thân mất nết. Ngài nói: Người nữ ấy có nhiều may mắn để hưởng Nước Chúa hơn những kẻ sống bám tiền của hoặc huênh hoang về nhân đức và hiểu biết của mình.

Người ấy không nói: Người đàn bà nầy chỉ là gái ngoại tình. Người nói: Ta không lên án con. Hãy đi đi và đừng phạm tội nữa.

Người ấy không nói: Người đàn bà tìm cách đụng đến áo mình chỉ là một thứ kinh loạn. Người lắng nghe bà, nói với bà và chữa lành bệnh cho bà.

Người ấy không nói: Bà già ấy bỏ tiền xu cắc vào hòm cúng để giúp sinh hoạt đền thờ là một người đàn bà mê tín. Nhưng Người nói bà ấy thật phi thường và ta cần noi theo gương vô vị lợi của bà.

Người ấy không nói: Bọn trẻ nầy chỉ là những đứa nhãi con. Người nói: Các con hãy để chúng đến với Ta và cố sống giống như chúng.

Người ấy không nói: Người đàn ông nầy chỉ là một thứ công chức hư hỏng, nịnh bợ quyền thế và bóc lột kẻ nghèo để vinh thân phì gia. Người tự đến ngồi vào bàn với người đó và quả quyết rằng nhà ông ta đã nhận ơn cứu độ.

 Người ấy không nói như thói thường dân gian: kẻ mù kia hẳn phải đền tội của hắn hay mọi tội của tổ tiên hắn. Người nói rằng suy nghĩ như vậy là không đúng; Người càng làm cho mọi người, và các tông đồ, các ký lục và Pha-ri-sêu ngạc nhiên, khi tuyên dương ông mù ấy đang hưởng ơn cao quí của Thiên Chúa: Hành động của Chúa phải được thể hiện nơi ông ta.

Người ấy không nói: Người sĩ quan nầy chỉ là một kẻ xâm lược. Người nói: Ta chưa hề thấy một Đức Tin nào như thế trong Ít-ra-en.

Người ấy không nói: Người thức giả nầy chỉ là một loại trí thức tự cao. Người mở đường cho ông ta được tái sinh trong Thánh Thần.

Người ấy không nói: Kẻ nầy chỉ là thứ đạo tặc. Người ấy nói với ông ta: Hôm nay, Ta sẽ ở với con trên Thiên đàng.

Người ấy không nói: Tên Giuđa nầy luôn mãi chỉ là một tên phản bội. Người để cho ông ấy hôn mình và nói với ông: Hỡi bạn của ta.

Người ấy không nói: Tên khoác lác nầy chỉ là một kẻ bội nghĩa. Người ấy nói với ông: Phê-rô, con thương Ta không?

Người ấy không nói: Những thầy cả thượng phẩm nầy chỉ là những phường phán xét bất công, vua nầy chỉ là tên múa rối, tên toàn quyền đó chỉ là đứa khiếp nhược, lớp người đang bêu rêu mình chỉ là một lũ đê tiện, các người lính đang hành hạ mình chỉ là quân bạo hành tra tấn. Người nói: Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm...

Người Giê-su đã không bao giờ nói: Không có gì tốt nơi người nầy, nơi người nọ, nơi chốn nầy, nơi môi trường kia...

Trong thời đại chúng ta, hẳn Người sẽ không bao giờ nói: Ấy chỉ là một kẻ cuồng tín, chỉ là một thứ chạy theo mốt tân thời, chỉ là một tên tà phái, phát-xít, vô thần, dị đoan...

Với Người ấy, những người khác, dẫu họ là ai, họ đã làm gì, thuộc thành phần nào, thành tích, danh tiếng họ thế nào, thì luôn luôn họ là những con người được Thiên Chúa yêu thương.

Không hề có người nào trả lời cho những người khác như Con Người ấy. Người ấy là Duy Nhất.

Người ấy là Con duy nhất của Đấng làm cho mặt trời chiếu sáng trên kẻ lành cũng như trên kẻ ác.

Lạy Chúa Giê-su Ki-tô, Con Thiên Chúa. Xin thương xót chúng tôi, là những kẻ tội lỗi!” [vii]

 

Ngoài ra, trung tâm của sứ điệp lòng thương xót mà Chúa rao giảng và sống, là sứ điệp nói về Cha trên trời. Chúa Giê-su đã gọi cha là Áp-ba – Cha ơi. “Áp-ba, Cha ơi, Cha làm được mọi sự, xin cất chén này xa con. Nhưng xin đừng làm điều con muốn, mà làm điều Cha muốn” (Mc 14,36). Trong Kinh Lạy Cha, Chúa Giê-su đã cho phép chúng ta cũng được cầu nguyện với Cha Ngài ở trên trời với từ ngữ rất thân thương “Áp-ba, Cha ơi”. Ngài mở cánh cửa ngôi nhà của lòng thương xót của Thiên Chúa, để chúng ta có thể bước vào gặp gỡ người Cha trên trời giàu lòng xót thương. Cha trên trời giàu lòng xót thương luôn chú ý đến thế giới của chúng ta.

 

Đối với Ngài, chúng ta rất quan trọng và rất quý giá. Tóc trên đầu của mỗi người chúng ta đều được Ngài đếm, trong đôi mắt của Cha chúng ta là những viên ngọc thật quý giá. Cha trên trời giàu lòng xót thương cũng thấu hiểu những gì chúng ta đang cần đến, trước khi chúng ta mở lời với Ngài. Ngài cho mặt trời mọc lên soi sáng kẻ xấu cũng như người tốt, và cho mưa xuống trên người công chính cũng như kẻ bất chính. Cha trên trời không ở xa chúng ta. Cuộc sống của chúng ta chính là món quà cao quý Cha đã ban tặng. Chúng ta được phép cảm nhận bàn tay nhân từ của Cha luôn ấp ủ, che chở và đỡ nâng chúng ta. Chúng ta được phép kêu lên người Cha giàu lòng thương xót, mỗi khi chúng ta rơi vào trong hố sâu khổ đau, dẫu cho chúng ta là những tội nhân. Thật vậy, mỗi khi chúng ta rơi vào trong hoàn cảnh khổ đau và bất hạnh, Thiên Chúa luôn hướng nhìn và nâng đỡ. Chúng ta đọc được điều này qua một số dụ ngôn của Chúa Giê-su. [viii]

 

- Sứ điệp về lòng thương xót của Thiên Chúa trong một số dụ ngôn.

 

Chúa Giê-su đã để lại cho chúng ta những dụ ngôn thật đẹp về Cha trên trời, Đấng giàu lòng thương xót. Có thể nhắc đến hai dụ ngôn gây ảnh hưởng rất sâu rộng trong cuộc sống và lịch sử nhân loại. Đó là dụ ngôn người Samaritanô nhân hậu (x.Lc 10,25-37) và dụ ngôn người Cha nhân hậu (x.Lc 15,11-32).

Trong dụ ngôn thứ nhất, Chúa Giê-su muốn giới thiệu cho chúng ta một ví dụ điển hình về lòng nhân hậu của người Samaritanô. Người Samaritanô trong đôi mắt của người Do Thái không phải là người đạo đức, mà họ bị coi thường như là người mang một nửa phần của dân ngoại. Với người Do Thái, người Samaritanô không phải là người thân cận của họ, bởi vì giữa những năm 6 và 9 sau Công Nguyên họ đã làm ô uế những vùng xung quanh đền thờ tại Giê-ru-sa-lem qua việc họ “rải xương người chết” trong thời gian của chính lễ vượt qua.[ix]  

Đọc lại đoạn Tin Mừng này, chúng ta thấy dụ ngôn kể về một người đàn ông trên đường từ Giê-ru-sa-lem tới Giêricô đã rơi vào tay bọn cướp, bị lột sạch sẽ, và kế đó, bị bỏ nằm bên vệ đường nửa sống nửa chết. Có hai nhân vật vị vọng trong xã hội Do Thái được nhắc tới. Đó là một thầy tư tế và một thầy Lê-vi. Trên đường đi, lần lượt cả hai thấy người bị nạn nằm ở dọc đường, nhưng đều tránh qua một bên và đi tiếp mà không có một lời hỏi thăm. Lòng họ không một chút xúc động và cũng chẳng diễn tả một sự tội nghiệp nhỏ bé nào cả.

 

Một sự vô cảm lạnh lùng của những con người được cho là đại diện cho những luật lệ luân lý và đạo đức, cũng như con người ở gần với bàn thờ Thiên Chúa nhất. Trong khi đó một người Samaritanô cũng đi qua, nhìn thấy nạn nhân bị hại nằm bên đường kia, thì ông làm gì?  “Có cái gì đó xảy ra: Trái tim ông ta đập thật mạnh và mở ra. Tin Mừng dùng thuật ngữ mà trong xã hội Do Thái nói về cung lòng và sự chăm sóc của người mẹ. Thấy người này trong tình trạng như thế là cú đánh vào ‘lục phủ ngũ tạng’ của ông ta, chạm đến linh hồn ông ta. ‘Ông ta chạnh lòng thương’, đó là cách mà ngày nay chúng ta dịch lại bản văn, cách này đã làm giảm bớt sinh khí nguyên thủy của bản văn. Tia chóa sáng của lòng thương xót đánh vào linh hồn ông ta, giờ đây, chính ông ta trở thành một người thân cận, không để ý đến bất cứ câu hỏi hay nguy hiểm nào cả.

 

Vì thế, sức nặng của vấn đề thay đổi chỗ này. Vấn đề không còn là người khác có phải là thân cận của tôi hay không. Vấn đề là về bản thân tôi. Tôi phải trở nên người thân cận (của người gặp nạn), và khi tôi làm như thế, thì với tôi người khác được kể như chính tôi…Helmut Kuhn đề nghị một giải thích về dụ ngôn này, mà chắc chắn đi ra khỏi nghĩa đen của bản văn, dĩ nhiên, ông thành công trong việc chuyển tải sứ điệp tận căn của dụ ngôn. Ông viết: ‘Tình yêu bạn bè theo nghĩa chính trị hệ tại vào sự bình đẳng của các hội viên. Ngược lại, dụ ngôn biểu tượng về người Samaritanô tốt lành nhấn mạnh đến sự bất bình đẳng tận căn của chúng: Người Samaritanô, kẻ xa lạ với dân chúng, đối diện với tha nhân vô danh. Người Samaritanô, người giúp đỡ nạn nhân vô vọng của vụ cướp bóc dã man. Dụ ngôn đề nghị rằng agape cắt ngang khỏi mọi đường lối chính trị, như được chúng thống trị bằng nguyên tắc do ut des (tôi cho, để bạn sẽ cho), và vì thế, trình bày đặc tính siêu nhiên của agape. Qua tính lô-gíc theo nguyên tắc của nó, agape không chỉ vượt ra khỏi những đường lối này, nhưng còn có nghĩa lật đổ chúng nữa: Người cuối sẽ lên đầu (x.Mt 19,30) và người hiền lành sẽ được đất làm gia nghiệp (x.Mt 5,5). Một điều khá rõ: Tính phổ quát mới đang đi vào bức tranh, và nằm trên yếu tố mà tận sâu thẳm bên trong, tôi đã sẵn sàng trở nên người anh em với tất cả những ai tôi gặp gỡ mà cần tôi giúp đỡ”.[x]

 

Trở về câu chuyện, chúng ta thấy nơi người Samaritanô một tâm hồn rung cảm trước con người khổ đau. Tâm hồn rung cảm đã thúc đẩy ông dừng bước, gác lại mọi chuyện ông đang cần lo trước mắt, và“ông ta lại gần, lấy dầu lấy rượu đổ lên vết thương cho người ấy và băng bó lại, rồi đặt người ấy trên lưng lừa của mình, đưa về quán trọ mà săn sóc. Hôm sau, ông lấy ra hai quan tiền, trao cho chủ quán và nói: Nhờ bác săn sóc cho người này, có tốn kém thêm bao nhiêu, thì khi trở về, chính tôi sẽ hoàn lại bác” (Lc 10,34-35). Với câu chuyện này, Chúa Giê-su muốn trả lời cho câu hỏi: “Nhưng ai là người thân cận của tôi?” (Lc 10,29). Không ai khác cả, mà chính là người đang rơi vào khổ đau, người đang cần đến sự giúp đỡ của chúng ta hơn cả. Người thân cận đó vượt trên mọi yếu tố gia đình, bạn bè quen biết, hay chủng tộc. Người thân cận là người mà tôi đang nhìn thấy họ gặp nạn và họ đang cần tôi giúp đỡ. Tình yêu và lòng thương xót dành cho người thân cận này vượt trên mọi chuẩn mực và thước đo của con người đặt ra. Dụ ngôn này diễn tả mạnh mẽ về tầm quan trọng của lòng thương xót. Tuy nhiên, sẽ quá vội vàng, nếu ứng dụng dụ ngôn này ngay cho đời sống của tín hữu.

 

Theo nhà Thánh Kinh học Bovon, trước hết người Samaritanô là hiện thân của Chúa Giê-su, Đấng có lòng thương xót nhân loại, và giúp đỡ nhân loại. Tinh thần của Đức Ki-tô được cấy rễ vào trong đời sống Đức Tin của mọi con cái Thiên Chúa, được nảy mầm trên mảnh đất Giáo Hội, và nhờ đó mà lòng thương xót của Thiên Chúa được thực thi trong hành trình sống Đức Tin của họ. Sự liên hệ này có ý nghĩa, vì dụ ngôn này được Chúa Giê-su đưa ra trong bối cảnh tranh luận với một người thông luật, với câu hỏi:“Thưa Thầy, tôi phải làm gì để được sự sống đời đời làm gia nghiệp ?” (Lc 10,25). Tiếp đến, Chúa Giê-su đã đưa người thông luật vào trong tinh thần yêu thương đã được dạy trong sách luật: “Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn, hết sức lực, và hết trí khôn ngươi, và yêu mến người thân cận như chính mình” (Lc 10,27). Như thế, dụ ngôn về lòng thương xót này liên hệ đến tình yêu của Thiên Chúa, Đấng giàu lòng thương xót và yêu thương chúng ta. Thiên Chúa đã đi bước trước, là mẫu gương cho chúng ta. Ngài cũng mời gọi chúng ta biết ý thức thực thi và sống tinh thần của lòng thương xót với người thân cận.[xi]

 

Thần học gia Ratzinger cũng nhìn người Samaritanô là hiện thân của Chúa Giê-su, Đấng có lòng thương xót nhân loại, những người bị nạn trên đường. “Nếu nạn nhân bị tấn công là hình ảnh của mọi người, người Samaritanô cũng chỉ là hình ảnh của Đức Giê-su Ki-tô. Chính Thiên Chúa, đối với chúng ta là Đấng xa lạ và lạnh nhạt, đã lên đường để chăm sóc tạo vật bị thương của Người. Thiên Chúa, dù rất xa cách chúng ta, đã làm chính Người trở thành người thân cận của chúng ta trong Đức Giê-su Ki-tô. Ngài đổ dầu đổ rượu lên vết thương chúng ta, một cử chỉ được xem như một hình ảnh ân huệ chữa lành của các bí tích, và Ngài đem chúng ta tới quán trọ, Hội thánh, trong đó, Ngài bố trí sự lo lắng cho chúng ta và cũng trả trước cho cái giá của sự lo lắng này. Chúng ta có thể bỏ qua những chi tiết nhỏ của ngụ ngôn, đã thay đổi từ Giáo phụ này sang Giáo phụ kia. Nhưng cái nhìn cao cả đã cho thấy con người đang nằm cách xa lạ và vô vọng bên cạnh đường trong lịch sử, và chính Thiên Chúa trở nên người thân cận của con người trong Đức Giê-su, là cái nhìn mà chúng ta có thể giữ lại cách vui vẻ, như một chiều kích sâu xa hơn của dụ ngôn mà liên quan đến chúng ta.

 

Vì lý do đó, mệnh lệnh cao cả được diễn tả trong dụ ngôn không bị yếu đi, nhưng giờ đây, chỉ xuất hiện trong uy quyền trọn vẹn của nó. Chủ đề quan trọng về tình yêu, là sức ép thật sự của bản văn, giờ đây chỉ được ban cho chiều sâu trọn vẹn của nó. Vì giờ đây, chúng ta nhận ra rằng tất cả chúng ta cũng bị ‘loại trừ’, đang cần sự cứu độ. Tất cả chúng ta cần đến ân huệ tình yêu cứu độ của Thiên Chúa cho chính chúng ta, để về phần chúng ta, chúng ta cũng có thể trở nên ‘những tình nhân’. Chúng ta luôn luôn cần Thiên Chúa, Đấng tự trở nên người thân cận của chúng ta, để chúng ta có thể trở nên những người thân cận”.[xii]

 

Dụ ngôn khác cũng rất quen thuộc là dụ ngôn kể về người Cha Nhân Hậu. Nếu nhìn trong bối cảnh của đoạn văn, thì ở trong chương 15, Lu-ca đặt ba dụ ngôn vào trong một chủ đề lòng thương xót, với sự tranh luận giữa Chúa Giê-su và các người Pha-ri-sêu cùng các Kinh Sư. Họ đã lầm bầm về một chuyện mà họ không thể chấp nhận nơi Chúa Giê-su: “Ông này đón tiếp phường tội lỗi và ăn uống với chúng” (Lc 15,2). Tiếp đến Chúa Giê-su nêu dụ ngôn đầu tiên về con chiên bị mất (Lc 15,1-7). Dụ ngôn thứ hai nói về đồng bạc bị đánh mất (Lc 15,8-10), và dụ ngôn thứ ba quen thuộc và dài nhất nói về người Cha Nhân Hậu, mà cũng có người nói là dụ ngôn người con hoang đàng (Lc 15,11-32).

Đức Thánh Cha Phanxicô cũng nhắc đến ba dụ ngôn này trong tông sắc về năm Thánh lòng thương xót của Thiên Chúa: “trong dụ ngôn về lòng thương xót, Chúa Giêsu tiết lộ bản tính của Thiên Chúa như một người Cha không bao giờ bỏ cuộc cho đến khi Ngài đã tha thứ kẻ sai phạm và vượt qua sự từ khước với lòng trắc ẩn và thương xót. Chúng ta biết rõ về những dụ ngôn này, đặc biệt là ba dụ ngôn: con chiên lạc, đồng tiền bị mất, và người cha có hai người con trai (x.Lc 15,1-32). Trong những dụ ngôn này, Thiên Chúa luôn được mô tả là tràn đầy niềm vui, đặc biệt là khi Ngài tha thứ. Nơi những dụ ngôn ấy, chúng ta tìm thấy cốt lõi của Tin Mừng và đức tin của chúng ta, vì lòng thương xót được trình bày như là một lực vượt qua tất cả mọi thứ, làm đầy trái tim với tình yêu và mang lại ủi an qua sự tha thứ” (số 09).

Bây giờ, chúng ta đọc và suy niệm dụ ngôn thứ ba, chúng ta thấy từ ngữ thương xót và công bằng hay công lý không xuất hiện trong dụ ngôn, nhưng nội dung của câu chuyện lại diễn tả cách rõ rệt và mạnh mẽ chủ đề lòng thương xót, qua tình yêu của người Cha nhân hậu dành cho đứa con hoang đàng ngỗ nghịch. Lòng thương xót này của người Cha vượt trên sự công bằng mang tính cách lô-gic bình thường. Tất cả những cử chỉ cao cả và tuyệt vời của Cha, khi thấy con về diễn tả một cách sống động tấm lòng yêu thương của cha dành cho con mình: Trông thấy, chạnh lòng thương, chạy ra ôm cổ anh ta, và hôn lấy hôn để. Tiếp đến là những cách hành xử rất tuyệt vời khác, có thể nói tương phản hoàn toàn với thực tế cuộc sống, và cũng vượt trên mọi chờ đợi của người con hoang đàng: Mặc áo đẹp nhất, xỏ nhẫn vào tay, xỏ dép vào chân, bắt con bê đã vỗ béo làm thịt để mở tiệc ăn mừng. Những thái độ cao cả này đã trả lại cho người con một thời đi hoang quyền làm con và phẩm giá làm người quý báu.

Những cử chỉ cao cả của người Cha và tương quan của Cha đối với người con đã từng bỏ nhà đi hoang không căn cứ vào sự công bằng, không căn cứ vào việc chia tài sản vật chất cho đúng đắn, mà căn cứ vào phẩm giá cao quý của con. Phẩm giá cao quý này chính là thước đo của tình yêu, của lòng thương xót. Ngoài dụ ngôn này, không có các dụ ngôn nào khác mà qua đó Chúa Giê-su diễn tả lòng thương xót cách nổi bật, rõ rệt, mạnh mẽ và sâu sắc. Thật vậy, trong dụ ngôn Cha Nhân Hậu, Chúa Giê-su muốn nói với chúng ta rằng: Ta đã làm như vậy, thì Cha trên trời cũng làm như vậy. Lòng thương xót của người Cha trong dụ ngôn này là sự công chính ở cấp bậc cao hơn. Có thể nói mạnh hơn rằng, sống tinh thần lòng thương xót là sự thực hành sự công bằng cách hoàn hảo nhất. Lòng thương xót của Thiên Chúa không bao giờ làm cho con người đánh mất giá trị của cuộc sống. Lòng thương xót của Thiên Chúa không để cho con người dù tội lỗi và lầm lỡ biết mấy, đánh mất phẩm giá cao quý làm người. Lời của Thiên Chúa trong Cựu Ước rất tương hợp dụ ngôn của chúng ta: “Ta chẳng vui gì khi kẻ gian ác phải chết, nhưng vui khi nó thay đổi đường lối để được sống” (Ed 33,11).[xiii]

Giờ đây, xin được suy niệm vào câu chuyện của dụ ngôn này. Chuyện kể về người Cha có hai người con. Người con lớn chăm chỉ làm việc, và một lòng tùng phục cha mình. Còn người con thứ thì ở tuổi thanh xuân, chuẩn bị bước vào cuộc đời, nên anh ta ham chơi, thích phiêu lưu mạo hiểm. Vì thế, dù mới ở tuổi 16 chưa có quyền để đòi của thừa kế, chàng thanh niên vẫn đòi Cha cho mình phần của cải mình sẽ được hưởng. Cậu ấy muốn biến món quà của tương lai xa xôi kia trở nên món quà của giây phút hiện tại. Tương lai cần phải được nắm trong tay ngay lúc này đây. Một kiểu tham lam không đáy của đời người, một cách cao ngạo và phung phí của con người trước những món quà cao quý. Nhưng Cha có cho không? Bình thường chẳng có cha mẹ nào chấp nhận trao món quà cao quý của tương lai cho đứa con chưa đủ lớn, chưa đủ trưởng thành. Nhưng chẳng hiểu sao, người cha trong câu chuyện lại “gật đầu” trước lời xin xỏ quá đáng kia. Phải chăng, người cha không thể từ chối đứa con yêu dấu bất cứ điều gì?

Khi “kho tàng tương lai” đã được nắm trong tay của giây phút hiện tại, điều gì đã xảy ra sau đó? Bước ra khỏi mái nhà thân yêu, lên đường đi phương xa. Chẳng biết có chào tạm biệt cha không, chẳng biết có đi khỏi nhà một cách đàng hoàng hay không, hay lén lút và kín đáo ôm “món quà tương lai” lẻn bước qua cửa sau của nhà mình, để đi vào cửa chính của thế giới vui nhộn đang chờ cậu ta trước mặt?

Ăn và chơi mà không làm, thì dù “món quà tương lai” có lớn kếch sù bao nhiêu, một ngày nào đó túi đầy tràn của ngày đầu tiên bước vào đời sẽ trở nên rỗng tuếch. Thê thảm thay phận người tham lam không đáy mà lại còn thích phung phí của trời! Rỗng tuếch sẽ hoàn rỗng tuếch. Cuối cùng, phận người đó đã rơi vào nơi mà anh ta chẳng bao giờ nghĩ tới, và cũng chẳng bao giờ muốn mơ tới. Nơi đó chẳng còn tiếng cười của bè bạn, nơi đó chẳng còn cốc rượu ngon của ngày nào, nơi đó chỉ còn bóng hình lam lũ cô đơn là chính anh đang ngồi bên cạnh những bóng hình không phải là người: một bầy heo. Con heo trong đôi mắt của người Do Thái là con vật dơ bẩn và gây nên biết bao ô uế. Vì thế, mọi người cần phải tránh xa con thú vật đó, nhưng phần anh ta, cũng là người Do Thái đấy, cũng là con cháu Áp-ra-ham đấy, lại phải sống chung với lũ heo kia. Vẫn biết rằng, anh ta là người chăn heo đấy, nhưng chưa chắc số phận của người chăn heo lại sướng hơn lũ heo đâu. Đọc kỹ, thì thấy đúng là vậy. Trong cơn đói khổ, anh ta ao ước lấy cám heo mà ăn nhưng chẳng ai cho. Nhìn lũ heo ăn xong lăn ra ngủ với cái bụng tròn căng, mà lòng anh quặn đau. May thay, cái đau kia cộng với cái đói đang làm cho bao tử của anh “kêu oan” và đã đánh động lòng anh, bắt đôi mắt anh đang thèm thuồng nhìn bầy heo no say, phải ngẩng đầu hướng nhìn về mái nhà thân yêu của mình, về hình ảnh của người Cha yêu dấu. Chẳng biết tại sao lúc này anh lại nghĩ về Cha, về nhà mình? Phải chăng vì đói, vì ao ước có được bữa ăn no bụng của những người đầy tớ trong nhà anh, nên anh làm thế. Chắc chắn rồi ! Nhưng không chỉ thế. Điều sâu xa thúc đẩy anh hướng lòng về Cha, về ngôi nhà thân yêu của mình chính là tình yêu người Cha dành cho anh. Thật vậy, anh chính là một phần của người Cha. Vì thế, khi cho anh của thừa kế, người cha cũng cho anh chính tình yêu của Cha. Tình yêu đó đồng hành với anh không chỉ trong mái nhà thân yêu của những ngày ấu thơ, mà còn theo anh lên đường đến những nơi anh đi tìm hoan lạc. Và tình yêu đó cũng sẵn sàng chia sẻ số phận lam lũ nghèo hèn của anh, ngay tại chuồng thú hôi hám và dơ bẩn kia. Một tình yêu cao quý và trong sạch của Cha luôn ở bên người con yêu dấu, dù người con đó bị biến dạng như thế nào đi nữa.

Vì người con là một phần của Cha, nên khi người con về tới đầu làng, thì đã thấy bóng dáng của Cha đang đứng trước nhà như đang trông mong mình. Nhưng không chỉ là “như”, mà là thật vậy. Tình yêu đã thúc đẩy Cha hàng ngày ra trước cửa nhà để trông ngóng “một phần” của mình trở về. Và vui sướng biết bao nhiêu, sau bao ngày mong ngóng, thì hôm nay đôi mắt cha thấy bóng dáng kia đang lủi thủi trở về. Nhưng làm sao ông có thể nhận ra hình dáng lam lũ kia, không còn mang chiếc áo sạch sẽ của ngày nào, với tấm thân gầy còm không mang hình hài của người con ngày xưa, đang lê bước với đôi chân trần nặng trĩu của ngày hôm nay? Phải chăng tình yêu đồng hành của Cha luôn trong sáng, đến nỗi không có vết bẩn nào của cuộc đời có thể cản trở làm cho cha không còn nhận ra con mình, dù đứa con đó có ra thế nào đi nữa. Một phần của chính Cha vẫn là một phần của chính Cha mà!

Vì thế, cha đã chạy lại ôm cổ con mình và hôn lấy hôn để. Một tình yêu không sợ ô uế bởi cái mùi phảng phất của lũ heo đang ám ảnh trên thân phận lam lũ kia. Một tình yêu dù chẳng mắc nợ gì, nhưng vẫn trả lại cho con những nụ hôn nồng nàn. Những nụ hôn nồng nàn và không ngừng đó như là tất cả những nụ hôn được cộng lại, tính từ ngày đứa con lên đường đi hoang cho đến ngày trở về hôm nay. Nhưng cái cộng lại đó không chỉ mang tính cách số lượng, mà cao quý hơn còn mang tính cách chất lượng. Chất lượng của lòng, của tâm, của chiều sâu nhất trong Cha. Vâng, Cha đã ôm hôn con với tình yêu của lòng mình dành cho con. Tình yêu tỏa ngát hương thơm trên thân xác hôi hám của đứa con hoang đàng. Thật không có mùi nước hoa nào thơm bằng mùi nước hoa của tình yêu!

Chính lúc ở trong vòng tay của Cha, người con đã thành thật lên tiếng thưa với Cha lời mà anh đã chuẩn bị khi còn là người chăn heo. Anh ta nói gì ?”Thưa Cha, con thật đắc tội với Trời và với Cha, chẳng còn đáng gọi là con cha nữa…”. Một lời ăn năn phát xuất từ tấm lòng sâu thẳm của anh. Chính giây phút anh thốt lên lời này, hai tâm hồn đã gặp lại nhau và ôm hôn nhau thật thắm thiết. Tâm hồn của Cha với tình yêu giàu lòng thương xót, và tâm hồn thống hối ăn năn của người con một thời đi hoang đã tìm lại nhịp đập chung. Âm thanh của nhịp đập chung đó như muốn nói rằng : “con là một phần của chính Cha và Cha là một phần của chính con”. Nhưng tại sao lời nói của anh chỉ có vậy? Dấu ba chấm trong câu để lửng như mang một ý nghĩa gì đó. Đọc kỹ lại lời nói người con chuẩn bị trước đó, mới thấy rằng, phần cuối của câu đã bị cắt đứt. Phần đó diễn tả điều gì? “Xin coi con như một người làm công cho Cha vậy”. Đây là lời cầu xin mà người con chuẩn bị để thưa với Cha. Nhưng vì bị Cha cắt lời giữa chừng, nên người con không nói hết câu được. Tại sao lại vậy? Phải chăng người Cha thấu biết điều đứa con xin? Chẳng biết nữa, nhưng dù sao một lời cầu xin dù thành tâm đấy, nhưng chưa chắc là hợp lý. Cái hợp lý của tình yêu khác với lô-gic của cái đầu. Làm sao Cha có thể chấp nhận lời cầu xin của đứa con, dù đã từng một thời bỏ Cha, bỏ nhà đi hoang, giờ đây không còn muốn giữ phẩm giá cao quý là con, mà xin xuống làm hàng đầy tớ. Không, không thể chấp nhận được. Cái bỏ lửng với ba dấu chấm sao mà tuyệt vời đến vậy! Ăn năn thống hối và trở về với lòng thành tâm sẽ hoàn lại tất cả những gì đã mất. Hay nói đúng hơn, tình yêu của Cha không thể mất dù người con có “quay lưng”, có chối từ và bỏ đi. Mùi nước hoa tình yêu của Cha một lần đã xức lên thân xác và tâm hồn đứa con, thì mùi hương thơm đó sẽ tồn tại mãi mãi. Không có mùi nào khác trong cuộc đời, dù có hôi có nặng đến mấy, có thể “chiếm chỗ” của hương thơm tình yêu. Cũng thế, hương thơm tỏa ra từ ngày được làm con vẫn thế. Con mãi mãi là con, chứ không có gì đổi thay. “Đầy tớ”, hai chữ này không có chỗ trong tình yêu của Cha dành cho con.

Vì là con, và vì con là một phần của chính Cha nữa, nên giờ đây con phải được tỏ lộ vẻ đẹp cao quý của Cha nơi mình. Không chỉ là cái đẹp của lòng bên trong, mà mọi người cần phải nhìn thấy cả nét đẹp tỏ lộ ra bên ngoài. Cái đẹp của chiếc áo mới, mà lại là áo đẹp nhất nữa chứ. Áo đẹp nhất mới xứng hợp với hương thơm của nước hoa tình yêu đang tỏa ngát trên thân xác và con người cậu. “Cậu” chứ không phải là người xa lạ bên ngoài mới tới. Vì thế, các người làm công và đầy tớ cũng cần phải chú ý vẫn giữ một tấm lòng trân trọng đối với người con của Cha, dù đã một thời lầm lẫn đi hoang. Phải gọi người con đó là “Cậu”, chứ không thể thay đổi gì cả. Cuộc đời có nhiều quá khứ, quá khứ với cái đẹp, quá khứ với cái xấu, quá khứ với an bình, quá khứ với khổ đau. Dù xấu dù đẹp, dù an bình dù khổ đau, nhưng tình yêu vẫn là tình yêu. Mọi sự sẽ qua đi, nhưng tình yêu Chúa mãi mãi tồn tại. Tình yêu của Cha không bao giờ chỉ thuộc về quá khứ. Tình yêu của Cha không bao giờ bị giam hãm trong “chiếc tủ” quá khứ. Tình yêu của Cha làm mới tất cả. Tình yêu Cha có sức mạnh làm cho người con vượt trên xấu và trên đẹp, trên khổ đau và trên an bình, để con vẫn luôn là con, để con vẫn được phép đeo vào chiếc nhẫn cao quý trên tay mình. Khi trở về lại với vị trí làm con, là người con nhận lại được “mảnh đất” cao quý và tràn đầy yêu thương trong nhà cha. Trên mảnh đất đó, người con cần được xỏ vào đôi dép của tình yêu. Đôi dép của lòng nhân hậu giúp cho con lại tiếp tục sống vui trong đời.

Mỗi niềm vui đến mà không được “ăn mừng”, thì sẽ nhanh chóng bị quên đi, bị đẩy lui vào dĩ vãng, và tiếc hơn vì giá trị của niềm vui đó vẫn chưa được khám phá cho đủ. Vì thế, cần phải mở tiệc ăn mừng. Làm sao không ăn mừng được? Đồng bạc đánh mất, và tìm thấy vẫn mở tiệc ăn mừng; con chiên lạc đàn, khi tìm lại, được ăn mừng lớn hơn. Còn người con “đã mất nay tìm thấy, đã chết mà nay sống lại”, thì phải ăn mừng sao cho đủ đây? Phải chuẩn bị bữa tiệc cho thật linh đình, nên cần phải đi bắt con bê đã vỗ béo làm thịt để chúng ta mở tiệc ăn mừng. Mà lạ thay tại sao lại là “con bê đã vỗ béo” ? Phải chăng, con bê này đã được chăm sóc, đã được “vỗ béo” một cách cẩn thận, và chỉ để dành cho bữa tiệc đón “Cậu” trở về? Một bữa tiệc của tình yêu, một bữa tiệc của lòng thương xót. Bữa tiệc mừng “một phần của chính Cha” đã tìm lại được. Bữa tiệc mừng sự hiệp nhất của tình yêu, bữa tiệc của sự trọn hảo của Cha - Đấng giàu lòng thương xót dành cho con mình.

Để cảm nhận sâu hơn lòng thương xót vô bờ của Chúa qua các dụ ngôn, thiết nghĩ cũng nên suy niệm thêm dụ ngôn về con chiên lạc. Thiên Chúa giàu lòng thương xót luôn ở bên, và sự hiện diện của Chúa luôn đem lại bình an. Hơn nữa, sự hiện diện của Chúa còn mang một năng động lớn, là Ngài – vị Mục Tử nhân lành hay thương xót sẵn sàng lên đường khi cần phải cứu thoát một con chiên đang đi lạc. Thánh Luca diễn tả: “Người nào trong các ông có một trăm con chiên mà bị mất một con, lại không để chín mươi chín con kia ngoài đồng hoang, để đi tìm cho kỳ được con chiên bị mất? Tìm được rồi, người ấy mừng rỡ vác lên vai. Về đến nhà, người ấy mời bạn bè, hàng xóm lại, và nói: Xin chung vui với tôi, vì tôi đã tìm được con chiên của tôi, con chiên bị mất đó. Vậy, tôi nói cho các ông hay: trên trời cũng thế, ai nấy sẽ vui mừng vì một người tội lỗi ăn năn sám hối, hơn là vì chín mươi chín người công chính không cần phải sám hối ăn năn” (Lc 15,4-7).

Liên hệ đến đoạn Thánh Kinh này, chúng ta để một vị giáo sư kể dụ ngôn về con chiên lạc sau đây: Người kia có nuôi một đàn chiên. Một hôm có một con chiên tìm thấy một lỗ hổng ở hàng rào nó vội chui qua. Nó chạy nhảy bên ngoài, mải mê vui thú, nó đi xa quên cả đường về. Trời sắp tối, nó giật mình thấy bóng dáng một con chó sói đang rình rập từ một lùm cây bên cạnh. Vô cùng sợ hãi nó chạy bán sống bán chết, nhưng con sói dữ tợn vẫn nai lưng đuổi theo nó.

Khi con sói đã gần kề thì may mắn thay người chăn chiên vừa kịp về đến, đánh đuổi con sói và cứu lấy con chiên, ông vác nó trên vai đem về chuồng. Tất cả mọi người thấy vậy bảo người chăn chiên bít lỗ hổng nơi hàng rào lại đề phòng về sau. Nhưng người này từ chối và cứ để như vậy.

Con chiên lạc trong câu chuyện trên đây chính là mỗi người chúng ta. Thiên Chúa yêu thương dựng nên con người chúng ta có tự do. Thật vậy, không tự do thì không có tình yêu, và tự do sẽ không thật là tự do, nếu thiếu vắng trách nhiệm, mà trách nhiệm thì luôn hướng về Chân Thiện Mỹ. Nhưng khốn thay, ngay từ đầu sự tự do Chúa yêu thương ban, đã bị nhiều người lạm dụng và tiếp tục lạm dụng, nghĩa là nhiều người đã và đang đui mù quay lưng với Chân Thiện Mỹ và chạy theo biết bao cám dỗ của sự dữ, của cái tôi. Hậu quả là sự dữ đã du nhập và tiếp tục du nhập vào thế gian.

Nhưng Thiên Chúa đã yêu thương thì Ngài yêu thương cho đến cùng. Tình yêu đó được diễn tả mạnh mẽ và rõ ràng qua việc vị Mục Tử không chấp nhận sự nhàn hạ thảnh thơi, không hài lòng với khung cảnh thanh bình trong ngôi nhà và trong thánh đường của Ngài. Mà nếu chỉ nghỉ ngơi và thanh thản ngồi hưởng cảnh yên bình thư thái, thì làm sao có được niềm vui đích thực, vì còn biết bao con chiên đang lạc đàn và đang ở đâu đó trong góc phố đen đủi của cuộc đời chờ đợi ơn cứu rỗi.

Cần phải lên đường, cần phải đứng dậy và rời khỏi nơi yên bình thư thái, để đi tìm cho được con chiên lạc đàn. Thật vậy, niềm vui lớn lao của đời phục vụ là khi tìm thấy những con chiên lạc đàn. Một ngày vất vả ngược xuôi, lao công và vất vả, nhưng thật là vui mừng quên cả mệt nhọc, khi tìm được con chiên lạc và đưa trở về. Đêm về, người mệt lả nhưng lòng thì phấn khởi mừng vui, miệng nở nụ cười sâu lắng của lòng Chúa xót thương. Ôi đẹp thay, hình ảnh của người mục tử vác con chiên lạc đàn trên vai và đưa về lại đàn chiên yêu dấu. Con chiên đó giờ đây được ở bên Chúa, được ở trong thánh đường của Chúa, và sự hiện diện của Chúa luôn đem lại bình an, vì Ngài chính là bình an đích thật, là Đấng giàu lòng thương xót vô bờ bến.

 

Đó là những dụ ngôn rất rất sống động diễn tả về hình ảnh của Thiên Chúa giàu lòng xót thương với muôn muôn người. Đức Clemens (*50 và +97), một Giáo Phụ đã nói về Cha trên trời giàu lòng thương xót như sau: “Cha tốt lành và nhân từ trong mọi sự luôn có trái tim cho những ai kính sợ Ngài. Cha nhân từ và tốt lành sẵn sàng và vui mừng ban tặng những ân sủng của Ngài cho những người biết chạy đến Cha với tâm hồn ngay thẳng”.[xiv] Các Giáo Phụ khác cũng luôn nhìn lòng thương xót là bản chất đặc biệt của Thiên Chúa. Như vậy, Giáo Hội tiên khởi đã luôn chú ý đến lòng thương xót của Thiên Chúa mà Thánh Kinh đã diễn tả: “Đời nọ tới đời kia, Chúa hằng thương xót những ai kính sợ Người” (Lc 1,50).“Chúc tụng Thiên Chúa là Thân Phụ Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta. Người là Cha giàu lòng từ bi lân ái, và là Thiên Chúa hằng sẵn sàng nâng đỡ ủi an” (2Cr 1,3). “Vì Chúa là Đấng từ bi nhân hậu” (Gc 5,11).

 

Ở trên, chúng ta vừa tìm hiểu và suy niệm về lòng thương xót của Thiên Chúa, được Chúa Giê-su rao giảng qua các dụ ngôn, và được sống động trong đời sống của Ngài. Khi Chúa Giê-su giảng dạy về Mối Phúc thương xót này, cũng là lúc Ngài đã hoạ lên một nét rất đẹp và rất quan trọng trong bức chân dung của chính Ngài (self-portrait). Cuộc đời của Chúa Giê-su đã ứng nghiệm với lời của ngôn sứ I-sai-a: “Người đã mang lấy các tật nguyền của ta và gánh lấy các bệnh hoạn của ta” (x.Mt 8,7 và Is 53,4).[xv] Như thế, chúng ta nhận ra rằng, Chúa Giê-su với lòng thương xót vô bờ bến, Ngài luôn bênh vực cuộc sống của chúng ta. Khi chúng ta được Ngài giải thoát và cứu độ, chúng ta cũng được Ngài mời gọi sống tinh thần của lòng thương xót với mọi anh chị em khác.

 

  • Lòng thương xót của Thiên Chúa và hành trình Đức Tin của chúng ta.

 

Trên hành trình Đức Tin của chúng ta, khi lắng nghe, nghiền ngẫm và cầu nguyện với Lời Chúa, là chúng ta đang bước vào con đường gặp gỡ Thiên Chúa, Đấng giàu lòng thương xót và Ngài cũng mời gọi chúng ta hãy có lòng thương xót giống như Chúa: “Anh em hãy có lòng nhân từ, như Cha anh em là Đấng nhân từ” (Lc 6,36).

Đức Thánh Cha Phanxicô cũng nhắc nhớ các tín hữu trong trong tông sắc về năm Thánh lòng thương xót của Thiên Chúa: “Lòng Thương Xót: là luật cơ bản ngự trị trong con tim của mỗi con người đang nhìn chân thành vào đôi mắt của anh chị em mình trên đường đời” (số 02). “Chúa Giêsu khẳng định rằng lòng thương xót không chỉ là một hành động của Chúa Cha, nó trở thành một tiêu chuẩn để xác thực ai là con cái thật sự của Ngài. Nói vắn tắt, chúng ta được mời gọi để tỏ lòng thương xót vì lòng thương xót đã được thể hiện ra cho chúng ta trước” (số 09). 

Lời mời gọi của Chúa Giê-su và lời nhắc nhớ của Vị Cha Chung tương hợp với lời kêu mời của Chúa trong Bài Giảng Trên Núi: “Vậy anh em hãy nên hoàn thiện, như Cha anh em trên trời là Đấng hoàn thiện” (Mt 5,48).

 

- Đổi mới cuộc đời, để tìm lại hình ảnh của Cha trên trời, Đấng giàu lòng thương xót.

 

Lời mời gọi chúng ta có lòng thương xót nhân từ giống Thiên Chúa là một lời mời gọi chúng ta đổi mới cuộc đời, bởi vì cuộc đời của con người trong thời đầu tiên đã bị tội lỗi làm nhơ bẩn, qua sự bất tuân phục Thiên Chúa. Tội lỗi tương phản với lòng nhân hậu mà Thiên Chúa ước mong có trong bản chất của con người. Tội lỗi đem lại những hậu quả rất đau thương qua việc Cain đã giết chết em ruột là Aben. Tội lỗi này đã làm méo mó khuôn mặt của con người, làm thay đổi khuôn mặt nguyên thuỷ của con người, khuôn mặt của người con giống hình ảnh Cha trên trời.

Như thế, lời mời gọi chúng ta có lòng thương xót giống Thiên Chúa là một bước đi mạnh mẽ, để tái tạo lại khuôn mặt của chúng ta, con người chúng ta của ngày đầu tiên – người con được Thiên Chúa yêu thương tạo dựng và mang hình ảnh của Ngài. Lòng thương xót là một nhịp cầu quan trọng để chúng ta có thể đến gần Thiên Chúa, để chúng ta có thể hiệp nhất với Ngài, người Cha của chúng ta. Lòng thương xót thực là một phần nền tảng trong đời sống của con cái Thiên Chúa. Cha nào con nấy. Nghĩa là chúng ta chỉ có thể là con của Cha trên trời giàu lòng thương xót, khi chúng ta mang trong mình lòng thương xót và thực thi lòng thương xót trong cuộc sống. Nhưng với sức mình, chúng ta không thể tự làm được, mà với ân sủng của Chúa, cụ thể qua chính Đức Ki-tô và công trình cứu độ của Ngài, chúng ta có thể trở nên một tạo vật mới, một con người mới, con người của lòng thương xót.

Thánh Phao-lô đã diễn tả trong thư gởi tín hữu thành Cô-lô-sê, về đời sống mới của chúng ta qua bí tích Thánh Tẩy, và trong sự Phục Sinh của Đức Ki-tô. Trước hết, thánh Phao-lô mời gọi chúng ta chú ý[xvi]: “Anh em đã được trỗi dậy cùng với Đức Ki-tô, nên hãy tìm kiếm những gì thuộc thượng giới, nơi Đức Ki-tô đang ngự bên hữu Thiên Chúa. Anh em hãy hướng lòng trí về những gì thuộc thượng giới, chứ đừng chú tâm vào những gì thuộc hạ giới. Thật vậy, anh em đã chết, và sự sống mới của anh em hiện đang tiềm tàng với Đức Ki-tô nơi Thiên Chúa” (Cl 3,1-3). Nhưng những điều thuộc về hạ giới và những gì thuộc về thượng giới là những điều gì? Thánh Phao-lô đã chỉ ra rõ ràng qua lời kêu gọi tiếp theo: “Vậy anh em hãy giết chết những gì thuộc về hạ giới trong con người anh em: ấy là gian dâm, ô uế, đam mê, ước muốn xấu và tham lam; mà tham lam cũng là thờ ngẫu tượng. Chính vì những điều đó mà cơn thịnh nộ của Thiên Chúa giáng xuống trên những kẻ không vâng phục. Chính anh em xưa kia cũng ăn ở như thế, khi anh em còn sống giữa những người ấy. Nhưng nay, cả anh em nữa, hãy từ bỏ tất cả những cái đó: nào là giận dữ, nóng nảy, độc ác, nào là thoá mạ, ăn nói thô tục. Anh em đừng nói dối nhau, vì anh em đã cởi bỏ con người cũ với những hành vi của nó rồi” (Cl 3,5-9).

 

Khi xa rời những gì thuộc hạ giới, chúng ta những người con cái của Cha nhân từ mang hình ảnh của Cha được mời gọi: “Anh em hãy có lòng thương cảm, nhân hậu, khiêm nhu, hiền hoà và nhẫn nại. Hãy chịu đựng và tha thứ cho nhau, nếu trong anh em người này có điều gì phải trách móc người kia. Chúa đã tha thứ cho anh em, thì anh em cũng vậy, anh em phải tha thứ cho nhau. Trên hết mọi đức tính, anh em phải có lòng bác ái: đó là mối dây liên kết tuyệt hảo. Ước gì ơn bình an của Đức Ki-tô điều khiển tâm hồn anh em, vì trong một thân thể duy nhất, anh em đã được kêu gọi đến hưởng ơn bình an đó. Bởi vậy, anh em hãy hết dạ tri ân. Ước chi lời Đức Ki-tô ngự giữa anh em thật dồi dào phong phú. Anh em hãy dạy dỗ khuyên bảo nhau với tất cả sự khôn ngoan. Để tỏ lòng biết ơn, anh em hãy đem cả tâm hồn mà hát dâng Thiên Chúa những bài Thánh Vịnh, thánh thi và thánh ca, do Thần Khí linh hứng. Anh em có làm gì, nói gì, thì hãy làm hãy nói nhân danh Chúa Giê-su và nhờ Người mà cảm tạ Thiên Chúa Cha” (Cl 3, 12-17).

Những lời nhắn nhủ dạy dỗ của Thánh Phao-lô không chỉ là lời cảnh báo cho giáo đoàn ở Cô-lô-sê thời đó, cần chú ý xa lánh những giáo điều sai lạc từ bên ngoài, mà ngài còn đưa lại cho mọi người bảng hướng dẫn cụ thể, để sống đúng tinh thần là những người có niềm tin, những người mang hình ảnh của Thiên Chúa, Đấng giàu lòng thương xót. Những lời chỉ dẫn này có giá trị trong mọi thời đại cho đời sống của Giáo Hội, và của mọi cộng đoàn địa phương, bởi vì những ai được đón nhận bí tích Rửa Tội, đều “coi mình như đã chết đối với tội lỗi, nhưng nay lại sống cho Thiên Chúa, trong Đức Ki-tô Giê-su” (Rm 6,11).

 

Như thế, bí tích Rửa Tội đối với Thánh Phao-lô không chỉ là một nghi thức đạo đức, mà còn là một huyền nhiệm chứa đựng những điều quan trọng nhất giúp cho người có niềm tin sống đạo theo đúng tinh thần là con của Cha nhân từ, Đấng ngự trên trời. Qua bí tích Rửa Tội, tín hữu đoạn tuyệt hoàn toàn với tội lỗi, nghĩa là con người cũ chết đi, con người cũ mà chúng ta phải mang từ khi A-đam cũ phạm tội; để mặc lấy con người mới qua chính A-đam mới là Đức Ki-tô. Con người mới trong Đức Ki-tô và với Đức Ki-tô tìm lại được hình ảnh của Thiên Chúa trong mình và tràn đầy hương hoa của thượng giới. Hương hoa thượng giới cao quý nhất chính là bác ái, yêu thương, nhân hậu và thương xót, những hương hoa thuộc về bản chất của Cha trên trời, Đấng giàu lòng thương xót.[xvii]

Như vậy, “khi mặc lấy lòng thương xót, chúng ta trở nên những người mô phỏng hình ảnh của Thiên Chúa, Đấng đã tạo dựng nên chúng ta theo hình ảnh của Ngài. Và cũng thế, khi đón nhận lời kêu gọi của Chúa Ki-tô để bước đi theo Ngài, chúng ta thực thi lòng thương xót của Thiên Chúa”.[xviii]

 

[i] Trích dẫn bởi SCHELLENBERGER B., Entdecke, dass du glueklich bist, t.72.

[ii] BENEDIKT XVI, Die Heilige Schrift, Meditation zur Bibel, t.198.

[iii] X. NOUWEN H., Jesus – A Gospel, t.7-8.

[iv] BONHOEFFER D., Nachfolge, t.86.

[v] X. MARTINI C.M., Selig seid ihr!, t.65-67.

[vi] X. KASPER W., Barmherzigkeit, t. 71-73.

[vii] Cố Hồng Y DECOURTRAY A., bài giảng Chúa Giê-su và sự tôn trọng người khác, Nguyễn Đăng Trúc chuyển ngữ, trích từ tập san Định Hướng, số Mùa Đông 1994.

[viii] X. KASPER W., Barmherzigkeit, t. 74.

[ix] X. RATZINGER J., Benedikt XVI, Jesus von Nazareth I, t.235-236.

[x] X. RATZINGER J., Benedikt XVI, Jesus von Nazareth I, t.237-238.

[xi] X. BOVON F., Das Evangelium nach Lukas, 2.Teilband – Lk 9,51-14,35, Benzinger Verlag, Zürich 1996, t.82.

[xii] X. RATZINGER J., Benedikt XVI, Jesus von Nazareth I, t.240-241.

[xiii] X. KASPER W., Barmherzigkeit, t. 74-77.

[xiv] Trích dẫn bởi KASPER W., Barmherzigkeit, t. 89.

[xv] X. CANTALAMESSA R. O.F.M.CAP., Beatitudes, eight steps to happiness, t.65.

[xvi] X. KOEHLER Théodore, từ ngữ Miséricorde, trong Dictionnarie de Spiritualité, Tome X, Beauchesne, Paris 1980, c.1313 và c.1315

[xvii] X. MUSSNER F., Der Brief an die Kolosser, Geistliche Schriftlesung, Patmos-Verlag, Duesseldorf 1964, t. 76-83.

[xviii] KEENAN J.F., SJ., The Works of Mercy, the heart of catholicism, A Sheed and Ward Book, Plymouth UK. 2008, t.9.

bottom of page