top of page

- Thương cho khách đỗ nhà.

Lật lại câu chuyện Giáng Sinh của Chúa Giê-su, chúng ta thấy hình ảnh Mẹ Maria với thai nhi trong lòng, cùng thánh Giu-se đi tìm một chỗ trọ ở gần Bê-lem. Nhưng tất cả mọi cánh cửa đều đóng lại với hai người. Thánh Lu-ca kể lại rằng: “Bà sinh con trai đầu lòng, lấy tã bọc con, rồi đặt nằm trong máng cỏ, vì hai ông bà không tìm được chỗ trong nhà trọ” (Lc 2,7). Ngay từ khi còn trong lòng Mẹ, Chúa Giê-su đã là khách đi tìm chỗ trọ. Đấng yêu thương và quyền năng trở thành người, và hơn nữa trở nên bần cùng nghèo nàn như con người, đến nỗi Ngài phải đi tìm một chỗ trú ngụ, tìm một chỗ để Ngài có thể được sinh ra vào cuộc đời này. Nhưng chẳng có nơi nào trong ngôi nhà của con người có chỗ cho Chúa. Đúng như lời của thánh sử Gio-an nói: “Người đã đến nhà mình, nhưng người nhà chẳng chịu đón nhận” (Ga 1,11), và trong Lu-ca: “Con chồn có hang, chim trời có tổ, nhưng Con Người không có chỗ tựa đầu” (Lc 9,58). Cuối cùng, nơi Chúa sinh ra là máng cỏ cho thú vật ăn, là một hang lừa nghèo nàn và đơn sơ. Điều này tương hợp với lời của Thánh Phao-lô đã nói: “Quả thật, anh em biết Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta, đã có lòng quảng đại như thế nào: Người vốn giàu sang phú quý, nhưng đã tự ý trở nên nghèo khó vì anh em, để lấy cái nghèo của mình mà làm cho anh em trở nên giàu có” (2Cr 8,9).[i] Câu chuyện khách trọ hài nhi Giê-su không chỉ dừng lại ở đó. Khi vừa được sinh ra, hài nhi Giê-su với cha mẹ mình đã phải chạy chốn khỏi quê hương. Quê hương không chỗ cho họ, mà giờ đây còn bách hại họ, để rồi họ trở thành những người di dân trốn chạy. Thánh Giuse cùng với Mẹ Maria và Hài Nhi Giê-su đã tìm được chỗ trọ tại đất khách quê người ở Ai-cập.

Câu chuyện của khách trọ hài nhi Giê-su là một bài học rất quan trọng trong thời đầu tiên của Giáo Hội, cho tinh thần nhân hậu thương cho khách đỗ nhà. Thánh Phao-lô đã nhắc nhở giáo đoàn Rôma rằng, lòng bác ái không được giả hình giả bộ, và cần thương mến nhau với tình huynh đệ: “Hãy chia sẻ với những người trong dân thánh đang lâm cảnh thiếu thốn, và ân cần tiếp đãi khách đến nhà” (Rm 12,13). Còn thánh Phê-rô thì kêu mời: “Hãy tiếp đón nhau mà không lẩm bẩm kêu ca” (1P 4,9). Tiếp theo tinh thần của hai thánh Tông Đồ, các Giáo Phụ cũng đã luôn nhắc nhớ các tín hữu ý thức sống tinh thần thương cho khách đỗ nhà. Thánh Biển Đức vào thế kỷ thứ 5-6, cũng đã ghi trong chương số 53 của cuốn tu luật mà ngài soạn một điều quan trọng, là việc thương cho khách đỗ nhà. Vì thế, trong các tu viện dòng Biển Đức, luôn có nhà khách đón những người tìm chỗ trọ. Họ có thể là người đi hành hương, người bộ hành, là các tu sĩ và linh mục cần một chỗ trú ngụ để tĩnh tâm và cầu nguyện. Sau đấy, dòng Xi-tô cũng theo gương đó, nên cũng có nhà khách cho những người tìm chỗ trọ.

Nhìn vào thế giới hôm nay, chúng ta thấy làn sóng di dân ở khắp mọi nơi trên thế giới, vì lý do bách hại và chiến tranh, hay vì lý do công ăn việc làm. Một thế giới với biết bao triệu triệu người đang là khách đi tìm chỗ trọ. Thật đau lòng biết bao, nhưng cũng thật đáng quý biết bao, khi các quốc gia đã mở cửa để đón tiếp những người đi tìm chỗ trọ. Không chỉ thế, họ còn tạo điều kiện sống một cách tốt đẹp cho những vị khách này. Không ít người, sau một thời gian, đã xây dựng chính gia đình và nhà cửa mình trên mảnh đất mới, và đã chọn mảnh đất mới thành quê hương thứ hai của họ, nơi họ được sống trong an bình và tự do, được hưởng tất cả các quyền căn bản của con người. Cũng thật quý báu, khi những tổ chức tôn giáo luôn chú ý đến và sẵn sàng nâng đỡ những người di dân nghèo nàn trong nhiều phương diện. Trong số họ đa số là phụ nữ và trẻ em. Như tổ chức Catholic Relief Services hay Caritas internationalis. Vào thập niên tám mươi, Cha Tổng Quền Dòng Tên P. Arrupe cũng đã lập ra tổ chức quốc tế giúp người di dân Jesuit Refugee Service.[ii]

Nhỏ hơn nhưng cũng thật là cao quý, khi thấy nhiều Giáo Xứ ở quê hương đã tổ chức đón tiếp các em sinh viên từ miền quê lên thành phố chuẩn bị cho các cuộc kỳ thi vào Đại Học. Cánh cửa nhà xứ mở ra, phòng ốc dọn dẹp sạch sẽ và trải những chiếc chiếu cho các em nằm nghỉ; những bà mẹ của các hội đoàn Công Giáo tiến hành đã thay nhau để chuẩn bị cho các em những bữa ăn chắc dạ no lòng, giúp các em có sức để ôn thi, hơn nữa còn tổ chức những buổi cầu nguyện cho các em, để các em có được tinh thần vững vàng và luôn tín thác vào Thiên Chúa, khi bước vào kỳ thi.

Cũng thật xúc động, khi được phép thấy những nữ tu trẻ trung, đã mở những ngôi nhà tình thương để đón tiếp những người phụ nữ lầm lỡ và đang mang thai. Cánh cửa tu viện rộng mở, các chị em lầm lỡ bị cha mẹ, gia đình và làng xóm chê trách và từ chối, được phép đến trú ngụ. Nơi đó các Sơ giúp các chị có một nơi sống thanh thản nhẹ nhàng, để chuẩn bị cho đứa con trong bụng được sinh ra trong an bình. Nơi đó, các chị được trân quý và không bị la mắng hay trách móc về một giây phút lầm lỡ trong quá khứ. Nơi đó, các chị và những em bé vừa chào đời được các Sơ đón nhận, nâng niu, nuôi nấng và yêu thương.

 

Tuyệt vời hơn, các Sơ đặc biệt đón nhận các em bé mới sinh ra đã bị cha mẹ cho đi, hay tệ hơn có em bị dục vào thùng rác được các Sơ đưa về. Các Sơ cho các em, những khách trọ hài nhi, có được chỗ ăn ở, và được những bàn tay nhân ái của các Sơ như các bà mẹ nhân từ giàu lòng xót thương nuôi nấng chở che. Các em đó là những Thiên Ân hay những Thiên Phúc của các Sơ. Hơn nữa, có một số em bị bỏ rơi, và được các Sơ đón nhận khi mới lọt lòng mẹ, và theo dòng thời gian được các Sơ cho đi học và lớn lên, trở thành những người trưởng thành với nghề nghiệp và với gia đình mới của các em. Những Thiên Ân và Thiên Phúc đó cần tiếp tục trao ban biết bao ân sủng, biết bao phúc lành của Thiên Chúa cho những người bất hạnh khác, đặc biệt cho các em bé khác bị bỏ rơi ngay từ khi lọt lòng mẹ.

Ngắm nhìn những gì các Sơ làm cho các em bé thơ ngây và bất hạnh, cũng như khi nhìn đến những tổ chức tôn giáo phục vụ cho những người di dân, tôi nhớ lại lời của thánh Phao-lô ngày xưa gởi giáo đoàn Do Thái: “Anh em hãy giữ mãi tình huynh đệ. Anh em đừng quên tỏ lòng hiếu khách, vì nhờ vậy, có những người đã được tiếp đón các thiên thần mà không biết” (Dt 13,1-2). Không chỉ là đón tiếp các thiên thần, mà còn đón tiếp chính Chúa Giê-su, như Chúa đã nói: “Ta là khách lạ, các ngươi đã tiếp rước” (Mt 25,35), và “Ta bảo thật các ngươi: mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy” (Mt 25,40). Khi chúng ta đón rước khách tìm chỗ trọ, là chúng ta đón rước Chúa.

 

Và khi chúng ta đón rước Chúa, là lúc chúng ta khám phá ra rằng, chính chúng ta là những khách trọ ở trần gian này. Chúng ta cần cầu xin Chúa cho chúng ta có một chỗ trọ ở trên trời như như anh trộm lành đã cầu xin: “Ông Giê-su ơi, khi ông vào Nước của ông, xin nhớ đến tôi!” (Lc 23,42). Lời cầu xin của người trộm lành là một lời cầu nguyện của kẻ hành khất đầy hy vọng. Trong chính hoàn cảnh vô vọng, anh ta vẫn khiêm tốn hướng đến Chúa Giê-su, để xin Ngài đoái nhìn, để cho anh có được một chỗ trú ngụ trên nước của Ngài, Đấng tốt lành và giàu lòng thương xót. “Vì vậy, qua câu trả lời này, Người cho chúng ta một hy vọng chắc chắn rằng sự tốt lành của Thiên Chúa có thể chạm đến chúng ta, ngay cả trong giây phút cuối cùng của cuộc đời, và ngay cả sau một cuộc đời sai lầm, ai chân thành cầu nguyện sẽ tìm thấy vòng tay rộng mở của Người Cha nhân lành đang chờ đợi đứa con trở lại”.[iii]

“Hai người bị đóng đinh hai bên hướng nhìn về Con Người đã đến chia sẻ số phận của họ, và cùng chết với họ. Hôm nay, anh sẽ được ở với tôi trên Thiên Đàng. Trước kia, Chúa Giê-su đã không ngừng nhắc rằng Thiên Chúa ban ơn cứu độ như một món quà tuyệt đối cho không; Người đã đến trần gian không phải để kêu gọi người công chính, nhưng là kẻ tội lỗi. Trong giờ phút quyết luyệt này, khi lìa thế để về bên Cha, Chúa Giê-su chứng thực lời Người một cách rõ ràng không thể tưởng tưởng được. Với người tử tội ấy, kẻ đã biết nhận rằng chúng ta chịu như thế này là đích đáng, và chẳng biết cậy vào đâu ngoại trừ lòng phó thác khiêm tốn và đầy nhân ái của mình, với con người ấy, thì từ trên Thập Giá, Chúa Giê-su tuyên bố: Hôm nay, anh sẽ được ở với tôi trên Thiên Đàng. Chúng ta hãy nghe nhà hùng biện Công Giáo Bossuet: Hôm nay: thật là nhanh chóng! Ở với tôi: cùng hội cùng thuyền quá tuyệt diệu! Trên thiên đàng: nơi ở bao tuyệt vời! Vậy thì ai còn hoài nghi được nữa về lòng thương xót của Thiên Chúa, ai còn có thể đem công đức của mình ra khoe nữa?”[iv] Lời của Chúa Giê-su nói với anh trộm lành thật là đẹp biết bao. Đó là sứ điệp nhân hậu và tràn đầy ơn cứu rỗi của Ngài muốn gởi tới tất cả những ai, dù quá khứ của họ thế nào, nếu họ biết khiêm tốn, ăn năn và hướng về Chúa để cầu xin, thì đều được Chúa đón nhận và ban tặng một chỗ trọ trên Thiên Đàng.

 

  • Thương chuộc kẻ làm tôi.

 

Khi còn nhỏ đọc lời này trong kinh thương người có mười bốn mối, tôi không hiểu được ý nghĩa của nó. Đến khi trưởng thành tôi hiểu ra ý nghĩa của tình trạng nô lệ đã được viết trong cuốn sách lịch sử nhân loại như thế nào. Chế độ nô lệ là chế độ mà trong đó con người được xem như một thứ hàng hóa để trao đổi và buôn bán. Nô lệ là người bị bắt buộc phải làm việc không lương cho người chủ, bị mất quyền con người, mất tự do và cuộc sống phụ thuộc hoàn toàn vào người chủ. Nhiều người trở thành nô lệ, vì bị bắt sau những cuộc chiến (hình thức tù binh), hoặc những cuộc càn quét của lực lượng xâm lăng hoặc của giai cấp thống trị. Một số khi sinh ra đã bị coi như là nô lệ, chỉ vì cha mẹ của họ là nô lệ. Trong lịch sử nhân loại, chế độ nô lệ đã được công nhận bởi hầu hết các quốc gia và xã hội. Hôm nay, chế độ nô lệ theo pháp luật quốc tế đã bị cấm đoán và coi như không còn nữa. Nhưng nhìn vào thế giới và xã hội hiện đại xung quanh, thì lời kinh thương chuộc kẻ làm tôi vẫn còn mang giá trị tròn đầy, bởi vì có biết bao nhiêu người đang trở thành những nô lệ trong hình thức mới rất tàn bạo và rất tinh vi.

 

Sứ điệp của Đức Thánh Cha Phanxicô nhân ngày hoà bình thế giới năm 2015 đã diễn tả nhiều bộ mặt nô lệ hôm qua và hôm nay như sau: “Từ thời xa xưa, các xã hội khác nhau đã biết đến hiện tượng người thống trị người. Đã từng có những giai đoạn trong lịch sử nhân loại, nơi đó cơ cấu nô lệ được chấp nhận cách rộng rãi và được luật pháp ghi nhận. Điều này quy định những ai được sinh ra tự do và những ai sinh ra là nô lệ, cũng như những điều kiện mà qua đó một người vốn sinh ra là tự do nhưng có thể bị mất đi quyền tự do của mình hay có lại nó. Nói cách khác, chính luật pháp cũng thừa nhận rằng một số người nào đó có thể hay phải bị xem là tài sản của người khác…; một nô lệ có thể bị mua bán, chuyển giao hay mua được, như thể họ là một món hàng thương mại. Ngày nay, với sự phát triển tích cực của ý thức con người, nạn nô lệ, vốn được xem như là một tội ác chống lại nhân loại, đã chính thức bị xóa bỏ trên toàn thế giới. Quyền của mỗi người không được bị xem là nô lệ hay phụ thuộc như nô lệ được thừa nhận trong luật quốc tế như là một điều khoản bất khả xâm phạm. Tuy nhiên, bất chấp cộng đồng quốc tế đã ký kết rất nhiều hiệp ước nhắm tới việc chấm dứt nạn nô lệ dưới nhiều hình thức, và đã khởi động nhiều chiến dịch khác nhau để chống lại nạn này, hàng triệu người ngày nay – trẻ em, đàn ông và đàn bà đủ mọi lứa tuổi – vẫn bị trút bỏ quyền tự do và bị buộc phải sống trong những điều kiện giống như các nô lệ”.[v]

Theo thống kê của tổ chức Walk Free Foaundation được viết trong The global Slavery Index 2014, ước tính hiện nay có khoảng 35,8 triệu người trên khắp thế giới hiện đang sống cuộc sống như một “nô lệ thời hiện đại”.[vi] Về những người bị coi là nô lệ thời hiện đại, Đức Phanxicô, trong sứ điệp nhân ngày hoà bình năm 2015, nhắc đến nhiều lao động nam và nữ, cả những người trẻ tuổi, bị nô dịch hóa trong nhiều khu vực khác nhau, dù là chính thức hay không chính thức, từ công việc trong nhà cho đến việc nông nghiệp, từ các nhà máy công nghiệp đến hầm mỏ, tại nhiều nước những quy định về lao động không khớp với những quy định và chuẩn mực quốc tế tối thiểu, hay thậm chí là phi pháp, khi trong hệ thống pháp luật của mình, không hề có những quy định nào bảo vệ quyền lợi của người lao động. Tiếp đến, Đức Phanxicô cũng hướng tới nhiều người tị nạn, mà trong cuộc phiêu lưu đầy bi kịch đã phải chịu đói khát, đã bị tước bỏ tự do, bị cướp mất của cải hay bị lạm dụng thể lý và tính dục. Trong số ấy, có những người đến được nơi cần đến sau hành trình mệt rã rời với đầy những sợ hãi và không an toàn, thì lại bị giam giữ trong những điều kiện hết sức tàn nhẫn.

 

Ngoài ra, vị cha chung cũng hướng đến những người bị buộc phải đi vào con đường mại dâm, nhiều người trong số họ còn rất nhỏ, nạn nô lệ và nô lệ tình dục;  Đức Phanxicô cũng hướng đến những phụ nữ bị buộc phải kết hôn, những người bị bán trong những vụ kết hôn được sắp xếp, hay những phụ nữ khi chồng chết thì bị chuyển cho một người thân của chồng như tài sản thừa kế, mà không cần biết cô ta có đồng ý hay không. Nhóm người khác mà Đức Thánh Cha hướng tới là những người lớn cũng như trẻ em. Họ là đối tượng của nạn buôn bán cơ phận, bị bắt nhập ngũ,  để xin ăn, để phục vụ cho những hoạt động phi pháp như sản xuất và buôn bán ma túy, hay để phục vụ cho những hình thức trá hình của việc nhận con nuôi mang tính quốc tế. Cuối cùng, Đức Phanxicô nghĩ đến tất cả những ai bị bắt cóc và bị giam giữ bởi những nhóm khủng bố, bị nô dịch hóa cho những mục đích của họ như là những chiến binh, hay trên hết trong những trường hợp các thiếu nữ và phụ nữ, bị sử dụng như là những nô lệ tình dục. Nhiều người trong số này đã biến mất, trong khi những người khác thì bị bán vài lần, bị tra tấn và bị hành hạ hay bị giết.[vii]

 

Trong The global Slavery Index 2014, chúng ta đọc được một vài trải nghiệm như sau: “Khi tôi 13 tuổi, ba tôi đã gả tôi cho một người đàn ông 45 tuổi, người đàn ông này đã hứa trả một số tiền cho gia đình tôi để được lấy tôi làm vợ. Tôi không có hạnh phúc với ông ta, nhưng tôi vẫn phải cam chịu sống với ông ta một năm, trước khi tôi trốn về lại nhà của mình. Ba tôi đã rất giận dữ khi tôi trốn về nhà. Ông đã đánh đập và hăm doạ tôi, bắt tôi trở về lại với người chồng của tôi; nhưng không có roi đòn nặng nề nào của ba tôi tồi tệ bằng việc tôi phải sống với chồng tôi. Khi tôi từ chối trở về với chồng, ba tôi đã đào một cái hố sâu. Ông bắt tôi phải nhảy xuống đó, và ông bắt đầu muốn chôn sống tôi. Tôi hoàn toàn kinh ngạc, khi ông thực sự chôn sống tôi, nếu như người hàng xóm không nghe tiếng cầu cứu của tôi và ngăn chặn ông lại”.[viii]

 

Đó là câu chuyện của Shahida, 13 tuổi, là nạn nhân của một việc cưỡng bức hôn nhân. Một chia sẻ khác của Moulkeheir: “Tôi lớn lên và làm việc cho một gia đình. Tôi sinh ra và được đưa vào gia đình này – nơi mà mẹ tôi đã làm việc trước tôi. Công việc rất nặng nhọc. Tôi đã phải đi ra ngoài để chăn đàn dê suốt cả ngày, và khi về thì lại phải lo mọi công việc trong nhà. Tôi không có đủ cơm ăn. Tôi thường xuyên bị đánh đập và bị xúc phạm. Tôi có con cái. Chúng lớn lên và cũng làm việc cho gia đình này. Hai đứa con gái của tôi là kết quả của việc hãm hiếp của người con trưởng trong gia đình ông chủ. Anh ta đã nói rằng, anh ta sẽ chặt đầu tôi, nếu tôi nói cho bất cứ ai biết anh chính là tác giả của việc ấy”.[ix] Một nạn nhân khác của nô lệ thời hiện đại kể lại rằng: “Đến ngày hôm nay, tôi không nhớ là từ khi nào nữa tôi đã ngủ chung với súc vật như với bò và dê… Giống như chúng, tôi cũng thật nghèo. Nhưng các con vật thì không bị đánh đập mỗi ngày, còn tôi thì bị”. Ker là tên của nạn nhân. Ker thường xuyên bị hành hạ tra tấn và đã bị mù loà bởi ông chủ của mình. Ker giờ đây là một thiếu niên, và năm ngoái đã được giải thoát khỏi tình trạng nô lệ, nhưng mẹ của anh ta, một nạn nhân khủng khiếp của bạo lực, vẫn còn sống trong hoàn cảnh cũ”.[x]

 

Đó là một vài chia sẻ điển hình của nô lệ thời hiện đại, mà xã hội chúng ta đang phải đương đầu. Gốc rễ của nạn nô lệ này xuất phát từ quan niệm con người cho phép đối xử với nhau như một đồ vật. Khi nào tội lỗi phá hỏng trái tim con người và làm ngăn cách chúng ta với Tạo Hóa cũng như với tha nhân, thì tha thân không còn được xem là những hữu thể có cùng phẩm giá, như là anh chị em cùng chia sẻ nhân tính, nhưng là những đồ vật. Được tạo ra giống Thiên Chúa và theo hình ảnh Thiên Chúa, nhưng bằng sự cưỡng bức, sự lừa dối, hay bằng những ép buộc về thể lý hay tâm lý, con người đã bị tước đoạt sự tự do của mình, bị bán và bị giảm thiểu xuống thành hàng hóa của một số người; bị đối xử như là phương tiện chứ không phải như cùng đích.

Cùng với nguyên nhân mang tính hữu thể học này - việc loại trừ nhân tính của người khác -, cũng còn có những nguyên nhân khác giúp giải thích những hình thức nô lệ tân thời, như sự nghèo khổ, việc chậm phát triển và sự loại trừ, đặc biệt là khi nó cùng tồn tại với việc thiếu đi nguồn đào tạo hay với một thực tại được đánh dấu bởi sự khan hiếm, nếu không muốn nói là không có, những cơ hội có việc làm. Nạn hối lộ những ai sẵn sàng bất cứ làm việc gì, để họ làm giàu cho bản thần, cũng là một nguyên nhân khác của nạn nô lệ. Thực ra, những người thực hiện việc nô dịch và buôn bán người thường phải mua chuộc cả một hệ thống trung gian phức tạp, một số thành viên của lực lượng cầm quyền hay các viên chức hay các thể chế dân sự và quân đội. Điều này xảy đến khi nằm ở vị trí trung tâm của hệ thống kinh tế là tiền bạc, chứ không phải là con người. Vâng, ở vị trí trung tâm của hệ thống kinh tế hay xã hội phải là con người, hình ảnh Thiên Chúa, được dựng nên để làm bá chủ vũ hoàn. Khi con người bị đồng tiền thay thế, các giá trị sẽ bị đảo lộn. Những nguyên nhân khác của nạn nô lệ là những xung đột vũ trang, bạo lực, hoạt động tội phạm và khủng bố. Nhiều người đã bị bắt cóc để đem bán, bắt đi chiến đấu như binh lính, hay bị khai thác tình dục, trong khi những người khác thì buộc phải đi tị nạn, bỏ lại mọi thứ đàng sau tất cả những gì họ có: đất nước, nhà cửa, của cải và thậm chí là các thành viên trong gia đình mình.[xi]

 

Trước thực trạng nô lệ thời hiện đại đem lại nhiều đau buồn này, chúng ta cần phải có những hành động nào? Lời cầu kinh thương chuộc kẻ làm tôi thật vẫn còn giá trị trong thời đại văn minh và tân tiến của internet và của truyền thông. Đức Thánh Cha Phanxicô mời gọi mọi người, mọi chính quyền ở các quốc gia, mọi tổ chức liên chính phủ, mọi cơ sở thương mại, mọi tổ chức tôn giáo và tổ chức xã hội cùng dấn thân để xoá bỏ nạn nô lệ. Phần Giáo Hội Công Giáo, thì “trong việc ‘loan báo chân lý tình yêu của Đức Ki-tô trong xã hội’, Giáo Hội luôn dấn thân không ngừng trong các hoạt động bác ái xuất phát từ chân lý về con người.

 

Giáo Hội có nhiệm vụ phải phơi bày ra mọi con đường dẫn đến việc hoán cải, cho phép chúng ta thay đổi cái nhìn về những người thân cận của mình, để nhận ra nơi những người khác ấy, dù là ai, người anh chị em trong một gia đình nhân loại, và để thừa nhận phẩm giá bẩm sinh của họ trong chân lý và tự do, như câu chuyện của Josephine Bakhita soi sáng cho chúng ta. Đây là vị thánh xuất thân từ vùng Darfur của Sudan, người đã bị bắt cóc bởi những người buôn bán nô lệ và bị bán cho những ông chủ tàn ác khi thánh nhân chỉ mới 9 tuổi, và sau đó, từ chính những kinh nghiệm đau thương này, thánh nhân đã trở nên một ‘ái nữ tự do của Thiên Chúa’, nhờ Đức Tin sống trong sự hiến dâng sốt sắng và trong sự phục vụ người khác, đặc biệt là những người thấp bé và bất lực nhất. Vị thánh này, người đã sống giữa thế kỷ 19 và 20, ngày nay vẫn có thể trở thành một mẫu gương điển hình của niềm hy vọng cho nhiều nạn nhân của nạn nô lệ; ngài có thể nâng đỡ cho những nỗ lực của những ai dấn thân trong cuộc đấu tranh chống lại ‘vết thương trên thân mình của nhân loại đương thời, một vết thương trên thân xác của Đức Ki-tô’. Dưới viễn tượng này, tôi muốn mời gọi mỗi người, theo vai trò và trách nhiệm riêng của mình, hãy thực thi hành vi huynh đệ đối với những ai đang bị giam giữ trong tình trạng nô dịch…Vì thế, tôi khẩn thiết nài xin tất cả anh chị em thiện chí, và tất cả những ai dù xa hay gần, bao gồm những cấp độ cao nhất của các thể chế dân sự, những ai chứng kiến nỗi đau của nạn nô lệ tân thời, đừng thỏa hiệp với sự dữ này, đừng quay mặt đi trước những nỗi đau của anh chị em mình, của đồng loại mình, những người đã bị tước đoạt tự do và nhân phẩm, nhưng hãy có dũng lực để đụng đến thân thể đau đớn của Đức Ki-tô, được biểu lộ nơi khuôn mặt của vô số những con người mà chính Ngài gọi là ‘những người anh em bé mọn của Ta’ (x.Mt 25,40.45)”.[xii]

Tương hợp với tinh thần dấn thân để giải thoát những nô lệ thời hiện đại mà Đức Phanxicô kêu gọi, cũng như theo tinh thần sống thực thi lòng thương xót nhân hậu của Chúa, chúng ta thấy thời Giáo Hội tiên khởi thánh Phao-lô đã xin cộng sự viên của mình là ông Philemôn đón nhận Ki-tô hữu mới là Onesimus trở nên người anh em của ông, dù trước kia Onesimus là nô lệ của Philemon; và hôm nay chúng ta cũng thấy các nữ tu đứng trong tuyến đầu của của việc dấn thân để cứu thoát biết bao nhiêu nạn nhân của nô lệ thời hiện đại. Nữ tu Sharmi D’Souza đến từ Ấn Độ đã kể về công việc hỗ trợ cho các nạn nhân và truy tố những kẻ buôn người. Nữ tu Sharmi cho biết, các nữ tu cùng với cảnh sát truy lùng tận bên trong các nhà thổ và giải cứu các cô gái. Ví dụ trong một cuộc đột kích, Sơ đã giải cứu được 37 cô gái, trong đó 11 cô là gái mại dâm tuổi vị thành niên. Từ những cô gái này, họ đã tìm hiểu tất cả các tình tiết về những kẻ buôn người là ai và nơi chúng làm việc, và sau đó đã tống được 30 kẻ buôn bán người vào tù. Sơ Sharmi cũng kêu gọi cho các giám mục, linh mục và mục sư sát cánh cùng các nữ tu, để giúp đỡ họ nhổ tận gốc những kẻ buôn bán người trên khắp thế giới.[xiii] Mong sao, mọi người trên thế giới đều ý thức rằng, trong mắt Thiên Chúa, mỗi con người là một người tự do, dù đó là con gái hay con trai, phụ nữ hay đàn ông, và được tạo dựng vì thiện ích của mọi người trong sự bình đẳng và tình huynh đệ.[xiv] Mong sao, thế giới này không còn tình trạng nô lệ nữa, và mọi người đều là anh em với nhau, và tất cả đều có một Cha giàu lòng thương xót ở trên trời.

Nguyện xin Thiên Chúa xót thương làm “mọi sự trở nên mới” (x.Kh 21,5), và xin cứu vãn các tương quan giữa con người chúng con, bao gồm cả tương quan giữa nô lệ và ông chủ, bằng cách làm sáng tỏ những điều mà cả hai bên đều có chung: cùng được nhận làm con của Cha, và cùng sống trong tình huynh đệ với Đức Ki-tô, Đấng đã trở nên nghèo nàn, mặc lấy thân phận phàm nhân, thân phận nô lệ, để cứu rỗi chúng con, những người sống như nô lệ của tội lỗi, của bóng đêm và của sự dữ. Xin cho chúng con thấu hiểu và thấm nhuần tình yêu của Chúa, và xin cho chúng con luôn gắn bó và kết hiệp mật thiết với Chúa trong cuộc sống, Đấng đã nói với chúng con: “Thầy không còn gọi anh em là tôi tớ, vì tôi tớ không biết việc chủ làm, nhưng thầy gọi anh em là bạn hữu, vì tất cả những gì Thầy nghe được nơi cha Thầy, Thầy đã cho anh em biết” (Ga 15,15).[xv]

- Thương chôn xác kẻ chết.

Đứng trước một người vừa nhắm mắt ra đi, chúng ta mới thấy rằng cái chết là một huyền nhiệm.[xvi] Sự huyền nhiệm của cái chết có thể được nhìn qua hai điều: Với cái chết của người khác chúng ta thấy rằng, người nhắm mắt ra đi bước vào một con đường mà trên đó anh ta phải đi một mình. Dù chúng ta có nắm lấy tay người chết với tất cả tình yêu thương và dịu dàng của chúng ta, thì chúng ta cũng không thể nào chia sẻ con đường này của người vừa ra đi. “Quả thật, có một đêm đen không âm thanh nào vươn tới được, có một cánh cửa mà ta chỉ có thể bước qua một mình, đó là cánh cửa của sự chết. Mọi nỗi sợ trên trần gian rốt cuộc cũng chỉ là nỗi sợ cô đơn đó”.[xvii] Vì thế, chúng ta cần phải trân trọng huyền nhiệm của sự chết nơi mỗi một con người. Có người trong cuộc sống trần thế đã có một đời dễ dàng và hạnh phúc, nhưng cũng có người đã phải vượt qua biết bao nhiêu thử thách và đã phải chiến đấu rất nhiều trong cuộc sống. Dù thế nào, khi họ nằm xuống, chúng ta phải trân trọng họ, trân trọng cuộc đời và trân trọng sự chết của họ.

Với cái chết của bản thân chúng ta, còn mang nhiều ý nghĩa hơn nữa. Chúng ta không biết khi nào chúng ta sẽ nằm xuống và chúng ta sẽ chết như thế nào. Sẽ chết như thế nào, điều này vượt ra ngoài phạm vi con người của chúng ta. Trong sách Gương Chúa Giê-su, còn được gọi là sách Gương Phúc, một cuốn sách mà Mẹ của tôi đã đọc trong cuộc đời, và khi qua đời đã để lại cho tôi, ở chương 23 – Gẫm về sự chết, có đoạn viết rằng: “Nếu có bao giờ bạn chứng kiến một người từ trần, hãy nhớ rằng, bạn cũng phải đi qua con đường đó. Buổi sáng hãy nhớ rằng có thể bạn không còn sống đến buổi chiều, và khi tối đến đừng dám chắc bạn sẽ sống đến bình minh. Do đó, hãy luôn sẵn sàng và sống như thể cái chết không bao giờ đến với bạn mà không chuẩn bị. Nhiều người chết thình lình và không ngờ, vì vào lúc bất ngờ Con Thiên Chúa sẽ đến”.[xviii] Ratzinger cũng đã đặt câu hỏi về sự chết, nhưng cũng xin đầu hàng không thể đưa lại câu trả lời: “Thực ra chết là gì? Điều gì xảy ra khi một người chết đi, nghĩa là bước vào cõi chết? Phải nhìn nhận rằng, chúng ta tất cả đều bối rối trước câu hỏi đó. Hẳn không ai trả lời được, bởi vì chúng ta còn đang sống, chưa có kinh nghiệm về cái chết”.[xix]

Với cái chết, con người đánh mất đi tất cả: cuộc sống tương quan và cuộc sống tình cảm, những việc làm dở dang, những kế hoạch hay dự án đang ở trên bàn, cả những giấc mơ đang có. Chỉ còn có mỗi một điều là người nằm xuống trao phó linh hồn của mình cho Chúa Cha ở trên trời, như chính Đức Ki-tô đã làm: “Phần con, con đến cùng Cha” (Ga 17,11), và “Lạy Cha, con xin phó thác hồn con trong tay Cha” (Lc 23,46). Karl Rahner đã suy niệm lời này như sau: “Đối với những ai đã yêu thế gian và trở nên một với thế gian này, thì thật là kinh khủng đối với họ, khi họ rơi vào bàn tay của Thiên Chúa. Nhưng Chúa vẫn kêu lên lạy Cha, con xin phó thác hồn con trong tay Cha. Nếu có một lời nào đáng để tin, thì chình là lời này. Lời mà Chúa đã thốt lên trong giây phút đạt tới đích điểm. Có một Thiên Chúa là Cha. Trong tay Ngài người ta có thể phó thác tất cả mọi sự. Mọi sự. Thật vậy, mọi sự đều được đón nhận”.[xx] Còn với Đức Benedicto XVI thì: “Những lời nói của Chúa Giê-su, sau khi cầu khẩn ‘Lạy Cha’, tiếp tục một diễn tả của Thánh Vịnh 31: ‘Con xin phó linh hồn Con trong tay Cha’ (Tv 31,6).

 

Tuy nhiên, những lời này không phải là một câu trưng dẫn đơn giản, nhưng thay vào đó, biểu lộ một quyết định vững chắc: Chúa Giê-su phó Mình cho Chúa Cha trong một hành động hoàn toàn phó thác. Những lời này là một lời cầu nguyện ‘trao phó’, hoàn toàn tin tưởng vào tình yêu của Thiên Chúa. Lời cầu nguyện của Chúa Giê-su trước cái chết là một điều bi thảm, cũng như với mọi người, nhưng cùng một lúc, được tràn ngập bởi sự bình thản thẳm sâu đến từ lòng tín thác vào Chúa Cha, và ý muốn hiến thân hoàn toàn cho Ngài trong vườn Cây Dầu, khi Người bước vào cuộc chiến đấu cuối cùng, cùng cầu nguyện mãnh liệt, và sắp sửa ‘bị nộp vào tay người ta’ (Lc 9,44), mồ hôi của Người đã trở thành ‘như những giọt máu rơi xuống đất’ (Lc 22,44). Nhưng trái tim của Người hoàn toàn vâng phục thánh ý Chúa Cha, và ‘một thiên sứ từ trời’ đã đến để an ủi Người (x.Lc 22,42-43). Bây giờ, trong những giây phút cuối cùng của Người, Chúa Giê-su đã thưa cùng Chúa Cha rằng Người phó thác trọn cuộc đời Người trong tay Chúa Cha”.[xxi]

Là tín hữu, chúng ta cũng được mời gọi tập sống như Chúa Giê-su trong những giây phút cuối cùng của cuộc sống, chúng ta cần tín thác hoàn toàn vào trong bày tay nhân hiền của Thiên Chúa, Đấng giàu lòng thương xót. Chính Chúa sẽ dẫn đưa chúng ta vượt qua cái chết, để bước vào đời sống mới trên Nước Thiên Đàng. Ngoài ra, chúng ta cũng phải tin tưởng hoàn toàn vào Chúa Giê-su, Đấng đã vượt qua sự chết, vượt qua nỗi cô đơn tột cùng của đêm đen, để sống lại và mở ra cho chúng ta một cánh cửa mới, cứu thoát chúng ta ra khỏi đêm đen của cái chết: “Đức Ki-tô đã vượt qua ngưỡng cửa cô đơn cuối cùng của nhân loại; qua cuộc khổ nạn của Ngài, Ngài đã bước xuống tận vực thẳm của thân phận bị ruồng rẫy. Nơi đâu chúng ta chẳng còn nghe được âm thanh nào vọng tới nữa, thì nơi đó có Ngài. Như vậy, có nghĩa là địa ngục đã bị đánh bại, hay đúng hơn cái chết không còn phải là địa ngục nữa. Cả hai giờ đây không còn giống như trước nữa, vì sự sống hiện diện ngay giữa lòng sự chết, tình yêu cư ngụ ngày trong bóng tối tử thần…Chết không còn dẫn vào cô đơn giá buốt, cánh cửa địa ngục nay đã mở toang…Cánh cửa sự chết mở toang, vì trong sự chết này có sự sống: có tình yêu cư ngụ”.[xxii]

 

Như thế, trong niềm tin vào Chúa Ki-tô, chúng ta tin rằng, sự chết dù đến khi nào và diễn ra thế nào, thì sự chết vẫn không phải là điểm kết của tín hữu: “Nếu kẻ chết không sống lại, thì Đức Ki-tô đã không trỗi dậy” (1Cr 15,13).

Niềm tin vào Chúa Ki-tô Phục Sinh đem lại cho chúng ta niềm hy vọng về sự sống vĩnh cửu. Chúng ta được phép hy vọng vào điều đó, vì Thiên Chúa khi dựng nên chúng ta, Ngài biết tên chúng ta, Ngài ghi khắc từng người chúng ta vào trong bàn tay của Người: “Này Cha đã ghi khắc con trong lòng bàn tay Cha” (Is 49,16). Tên của chúng ta không bao giờ bị phai nhoà, vì Chúa đã viết tên chúng ta không bằng những giọt mực dễ phai, mà Ngài viết bằng chính tình yêu thương. Mà tình yêu thì không bao giờ mất được. Hơn nữa, Chúa không chỉ viết, chỉ ghi, mà còn khắc tên chúng ta nữa. Khi cho chúng ta bước vào cuộc sống ở trần gian này, Thiên Chúa khắc sâu từng người chúng ta trong trái tim yêu thương của Ngài, và khi chúng ta đi ngang qua cái chết để trở về với Chúa, thì tên của chúng ta đã được Ngài khắc trên tấm bảng của sự sống vĩnh cửu. Rahner đã xác tín đời sống vĩnh cửu của con người cách sâu sắc: “Thánh Kinh không hề biết đến bất cứ đời sống con người nào lại quá tầm thường, đến nỗi con người không có giá trị đủ để trở thành vĩnh cửu, và đó là sự lạc quan cao cả của Thánh Kinh. Không có gì quá nhiều đối với Thánh Kinh. Vì mỗi người được Thiên Chúa gọi với tên của mình, và vì mỗi người hiện hữu trong thời gian và trước sự hiện diện của Thiên Chúa, Đấng phát xét và cứu độ, nên mỗi người là một con người của vĩnh cửu chứ không chỉ những thần linh cao cả của lịch sử.

 

Hơn thế nữa, trong thần học Gio-an điều đó trở nên rõ ràng hơn, khi tính vĩnh cửu ấy đang hiện hữu trong thời gian, và vì thế vĩnh cửu vượt trên thời gian, chứ không phải là một phần thưởng được ban cho sau thời gian và thêm vào cho thời gian. Thánh Kinh mô tả nội dung đời sống vinh phúc của người chết bằng cả ngàn hình ảnh: Như yên nghỉ và bình an, như bữa tiệc và vinh quang, như sống trong nhà Cha, như vương quốc vĩnh cửu của Vương Triều Thiên Chúa, như cộng đoàn của mọi người đã đạt đến viên mãn vinh phúc, như thừa hưởng vinh quang Thiên Chúa, như một ngày không bao giờ có tận cùng, và như sự thoả mãn không buồn tẻ. Xuyên suốt mọi lời trong Thánh Kinh, ta luôn luôn ước đoán cùng một điều duy nhất: Thiên Chúa là mầu nhiệm tuyệt đối. Và do đó, sự viên mãn và gần gũi tuyệt đối với chính Thiên Chúa cũng là một mầu nhiệm khôn tả, mà ta phải gặp và người quá cố chết đi trong Đức Chúa lại tìm thấy, như sách Khải Huyền nói. Đó là mầu nhiệm hạnh phúc khôn tả”.[xxiii] Giáo Hội cũng dạy chúng ta rằng: “Tất cả các bí tích, nhất là các bí tích khai tâm Ki-tô giáo, đều hướng tới mục tiêu là cuộc Vượt Qua cuối cùng dẫn đưa người con Thiên Chúa vượt qua sự chết, vào đời sống trong Nước Trời. Những điều người tín hữu tuyên xưng trong đức tin và hy vọng tôi đợi trông ngày kẻ chết sống lại, và sự sống đời sau, lúc đó được hoàn tất trọn vẹn (x. Kinh Tin Kính của CÐ.Ni-xê-a Công-tăng-ti-nô-pô-li).

 

Ðối với Ki-tô hữu, ý nghĩa sự chết được mặc khải trong ánh sáng của mầu nhiệm Vượt Qua, mầu nhiệm Tử Nạn và Phục Sinh của Ðức Ki-tô, Ðấng đem lại cho chúng ta niềm hy vọng duy nhất. Người ki-tô hữu được cùng chết với Ðức Ki-tô, lìa bỏ thân xác này để được ở bên Chúa (x.2Cr 5,8)”.[xxiv] Chính vì hiểu được huyền nhiệm của sự chết, và rất trân trọng những người nằm xuống, cũng như dựa vào nền tảng của niềm tin vào Chúa Phục Sinh, Giáo Hội luôn khuyên nhủ con cái mình cần phải thương chôn xác kẻ chết. Lật lại sách Tôbia trong Cựu Ước, chúng ta thấy ông đã nói rằng: “Nếu thấy ai trong số đồng bào tôi chết và bị quăng thây ra phía sau tường thành Ni-ni-vê, thì tôi chôn cất người đó” (Tb 1,17).

Lời của Tôbia làm cho chúng ta nhớ lại hình ảnh của mẹ Tê-rê-sa thành Can-cút-ta. Một trong những trải nghiệm sâu xa của mẹ đánh động lòng người, chính là việc mẹ quyết tâm phải tìm được một nơi chốn cho những người bất hạnh, yếu đau đang nằm chờ chết ở dọc các phố nghèo nàn của thành phố Can-cút-ta. Với mẹ, họ cần được chết như là một con người, chứ không thể chết vất vưởng ở dọc đường như là những con thú và chẳng ai màng tới cả. Phẩm giá của con người, dù nghèo đến mấy, cũng cần phải được tôn trọng. Con người đó với thân xác mỏng dòn và đang đứng trước ngưỡng cửa của tử thần vẫn cần được yêu thương và trân trọng.

 

Thân xác của con người đó chính là công trình sáng tạo tuyệt vời của Thiên Chúa, Đấng giàu lòng xót thương, nên mẹ Tê-rê-sa đã lập ra những ngôi nhà hấp hối cho các anh chị em nghèo nàn. Dưới đây là một chia sẻ của các nữ tu của mẹ Tê-rê-sa về công việc thương chôn xác kẻ chết, trong một nhà hấp hối ở Can-cú-ta: “Khi những người hấp hối mới đến trung tâm thường họ không thể nói được, bởi thế khi họ được chở đến bằng xe cứu thương hay bởi các nam hay nữ tu sĩ khiêng vào, họ được nhập viện với tên ‘vô danh’. Sau đó, với một chút săn sóc và yêu thương và thực phẩm, họ có thể nói được và cho biết tên. Các chị cũng thường cố biết xem họ thuộc tôn giáo nào, để khi chết họ được chôn cất cách thích hợp. Người Công Giáo thì ra nghĩa trang, người Hồi Giáo thì ra chỗ chôn cất của người Hồi Giáo, và người Ấn Giáo được hỏa thiêu bên cạnh sông, là chỗ rất gần chúng tôi. Ða số những người đến với chúng tôi là Ấn Giáo, nên nếu chúng tôi không biết tôn giáo của họ, thường chúng tôi chôn họ theo Ấn Giáo”.[xxv]

Một sự dấn thân khác cho tinh thần thương chôn xác kẻ chết ở tại quê hương. Đó là hình ảnh của một anh em linh mục trẻ ở vùng sâu vùng xa, nơi đó đa số giáo dân là người nghèo. Khi được thuyên chuyển tới đó, cha đã tập chia sẻ cuộc sống với người nghèo, và phục vụ họ trong mọi phương diện. Một điều cha chia sẻ ghi khắc vào tâm hồn tôi. Cha đã mời gọi nhiều anh chị em giáo dân ở những nơi khác mà cha biết, xin họ giúp cha một điều, là góp phần giúp cha có thể đóng được những cỗ quan tài đơn sơ, để khi gia đình nghèo nào có người qua đời, dù Công Giáo hay lương giáo, đều được cha chia sẻ một cỗ quan tài đơn sơ. Tình yêu và lòng thương xót không bao giờ chê bai những cảnh nghèo nàn, tình yêu và lòng thương xót thắng vượt trên cái nghèo và sự chết, để luôn trân quý và gìn giữ phẩm giá của người vừa nằm xuống, dù họ là ai đi nữa.

Với sự trân quý người nằm xuống, mà Giáo Hội đã có nghi thức cao quý nhất để tiễn biệt con cái của mình khi họ được Chúa gọi về. Nghi thức đó chính là Thánh Lễ: “Trong Thánh Lễ, Hội Thánh bày tỏ sự hiệp thông hữu hiệu của mình với người quá cố: khi dâng lên Chúa Cha, trong Chúa Thánh Thần, hy tế cuộc Tử Nạn và Phục Sinh của Ðức Ki-tô, Hội Thánh cầu xin Cha cho người con của mình được thanh luyện khỏi mọi tội lỗi, được tha mọi hình phạt, và được nhận vào bàn tiệc trong nước Chúa (x.Sách Lễ Nghi An Táng 57). Nhờ bí tích Thánh Thể, cộng đoàn tín hữu, nhất là gia đình người quá cố, học sống hiệp thông với người ‘đã an nghỉ trong Chúa’, bằng cách rước Mình Thánh Chúa mà người đó đang là một chi thể sống động, để rồi cầu nguyện cho và cùng với người đó. Nghi thức từ biệt người quá cố lần cuối cùng là lời Hội Thánh ‘phó dâng người này cho Chúa’. ‘Cộng đoàn Ki-tô hữu chào từ biệt lần cuối cùng một chi thể của mình, trước khi xác người đó được mai táng’ (x.Sách Lễ Nghi AnTáng 10).

 

Truyền thống By-zan-tin diễn tả ý nghĩa này bằng cái hôn từ biệt người quá cố: ‘Bằng lời chào cuối cùng này, chúng tôi hát tiễn người ra đi khỏi cuộc đời này và hát bài chia ly, cũng là bài hiệp thông và tái ngộ. Ðúng vậy, cái chết không hề chia lìa chúng tôi, vì tất cả chúng tôi đang đi cùng một đường và sẽ gặp lại nhau ở cùng một nơi. Chúng tôi sẽ không bao giờ bị chia cách, vì đang sống cho Ðức Ki-tô và giờ này đang được kết hiệp với Người, đang đi gặp Người...Tất cả chúng tôi sẽ đoàn tụ trong Ðức Ki-tô’ (x.Thánh Si-mê-on thành Thê-xa-lô-ni-ca, Sep.)”.[xxvi] Vì thế, khi sống tinh thần thương chôn xác kẻ chết, là lúc chúng ta cầu nguyện cùng Chúa cho người vừa nằm xuống và cho bản thân chúng ta sau này, có được một chỗ trên nước Thiên đàng, như lời khuyên trong sách Gương Chúa Giê-su: “Hãy giữ mình như một khách lạ trên trần gian, một lữ khách không màng gì đến thế sự. Hãy giữ tâm hồn bạn được tự do và dâng lên Thiên Chúa, vì bạn không có căn nhà vĩnh cửu ở đây (x.Dt 13,14). Hằng ngày hãy dâng lên Người kinh nguyện, tiếng thở than và nước mắt thống hối của bạn, để sau khi chết linh hồn bạn được đến với Thiên Chúa trong hạnh phúc”.[xxvii]

Thật là quý báu, khi thực thi lòng thương xót của Thiên Chúa qua chính hành động yêu thương giúp đỡ người anh em bên cạnh, trong lúc họ rơi vào tình trạng đói khát, rách rưới, bệnh hoạn và bị tù đày, cũng như khi họ chết đi. Tất cả những điều đó, khi chúng ta thực thi, không chỉ cho những anh chị em bất hạnh, mà chúng ta làm cho chính Chúa Giê-su, bởi vì họ là hiện thân của chính Chúa: “Sự khốn cùng của con người xuất hiện dưới nhiều hình thức: thiếu thốn vật chất, bất công và đàn áp, bệnh hoạn thể xác và tâm thần, cuối cùng là cái chết. Sự khốn cùng này là dấu chỉ cho thấy con người sau nguyên tội yếu đuối từ bẩm sinh và cần đến ơn cứu độ. Vì thế, Ðức Ki-tô đã chạnh lòng thương xót và mang lấy thân phận khốn cùng của con người và tự đồng hóa với người bé nhỏ trong các anh em”.[xxviii]

Tóm lại, lòng thương xót có chiều rộng và chiều sâu như thế nào, và lòng thương xót có ý nghĩa gì cụ thể đối với người Ki-tô hữu, cũng như lòng thương xót cần được thực thi ra sao, thánh nữ Faustina đã diễn tả cách sâu sắc trong lời cầu nguyện viết vào năm 1937:

Lạy Chúa xin giúp đỡ con, để đôi mắt con luôn nhân từ, và con không nghi ngờ hay kết án bất cứ ai qua giáng vẻ bề ngoài của họ, xin giúp con cảm nhận được những gì đẹp đẽ trong tâm hồn của anh chị em bên cạnh và luôn sẵn sàng nâng đỡ họ.

Lạy Chúa xin giúp đỡ con, để đôi tai con luôn nhân từ, và con luôn chú ý đến nhu cầu của anh chị em bên cạnh, và đôi tai con không “dửng dưng” trước những nỗi đau và kêu than của anh chị em bên cạnh.

Lạy Chúa xin giúp đỡ con, để miệng lưỡi con luôn nhân từ, và con không bao giờ nói xấu anh chị em bên cạnh, ngược lại mỗi lời con nói ra là lời an ủi và tha thứ cho mọi người.

Lạy Chúa xin giúp đỡ con, để đôi tay con luôn nhân từ và tràn đầy những việc tốt lành, và đối với anh chị em bên cạnh con chỉ làm những điều tốt đẹp cho họ, phần con thì sẵn sàng đón nhận những gì khó khăn và lao nhọc.

Lạy Chúa xin giúp đỡ con, để đôi chân con luôn nhân từ, và con luôn sẵn sàng đến và giúp đỡ anh chị em bên cạnh, và luôn làm chủ được sự nhọc nhằn và mệt mỏi của bản thân. Sự nghỉ ngơi đích thật của con nằm ở trong sự phục vụ anh chị em bên cạnh.

Lạy Chúa xin giúp đỡ con, để trái tim con luôn nhân từ, nhờ đó con luôn cảm nhận được những khổ đau của anh chị em bên cạnh, và trái tim con không từ chối bất cứ ai, cũng như con luôn có thái độ dịu dàng và đúng đắn với những người mà con biết rằng, họ có thể lạm dụng những tình cảm của con; phần con xin được ẩn náu trong trái tim nhân từ của Chúa Giê-su. Với những khổ đau của bản thân, con xin được giữ riêng cho mình. Lạy Chúa, xin cho lòng thương xót của Chúa luôn hiện diện trong con.

Chính Chúa đã lệnh truyền cho con, là con cần phải thực thi ba mức độ của lòng thương xót. Mức độ thứ nhất là: Hành động thương xót và nhân từ - trong mỗi một hành động. Thứ hai: Lời nói thương xót và nhân từ - những gì con không thực hiện được bằng hành động, thì xin giúp con thực hiện bằng lời nói. Thứ ba: Cầu nguyện – Nếu con không thể thực thi lòng thương xót qua hành động và lời nói được, xin giúp con thực thi trong cầu nguyện. Lời cầu nguyện của con vươn tới những nơi, mà bản thân con với thân xác này không thể vươn tới được. Lạy Chúa Giê-su của con, xin thánh hoá con trong Chúa, vì Chúa có thể làm được mọi sự”.[xxix]

 

 

 

 

 

[i] X. STOEGER A., Das Evangelium nach Lukas, 1.Teil, Geistliche Schriftlesung, Patmos Verlag, Düsseldorf 1964, t.78

[ii] X. KEENAN J.F., SJ., The Works of Mercy, the heart of catholicism, t.21-24.

[iii] BENEDIKT XVI, Bài Giáo Lý thứ 27 về cầu nguyện.

[iv] Chú thích Lc 23,43 của HURAULT B., trong Lời Chúa cho mọi người, Thánh Kinh Cựu Ước và Tân Ước, t.1804.

[v] ĐTC. Phanxicô, Sứ điệp nhân ngày hoà bình thế giới 2015, số 3. Bản tiếng Việt của Pr. Lê Hoàng Nam SJ., nguồn: dongten.net.

[vi] The global Slavery Index 2014, t.6, nguồn: www.globalslaveryindex.org

[vii] X. ĐTC. Phanxicô, Sứ điệp nhân ngày hoà bình thế giới 2015, số 3.

[viii] The global Slavery Index 2014, t.33.

[ix] The global Slavery Index 2014, t.69.

[x] The global Slavery Index 2014, t.69.

[xi] X. ĐTC. Phanxicô, Sứ điệp nhân ngày hoà bình thế giới 2015, số 4.

[xii] ĐTC. Phanxicô, Sứ điệp nhân ngày hoà bình thế giới 2015, số 6.

[xiii] X. Các nữ tu chống lại hình thức nô lệ mới, bài của Hoàng Minh, nguồn: http://www.chuacuuthe.com.

[xiv] X. Tuyên bố của các nhà lãnh đạo tôn giáo đòi hỏi xóa bỏ chế độ nô lệ, nguồn: http://www.hdgmvietnam.org/

[xv] X. ĐTC. Phanxicô, Sứ điệp nhân ngày hoà bình thế giới 2015, số 2.

[xvi] X. FERLAY P., Abrégé de la vie spirituelle, Desclée, Paris 1988, t.108-109.

[xvii] RATZINGER J., Einfuehrung in das Christentum, t.248. Tham khảo bản tiếng Việt với tựa đề Đức Tin Ki-tô Giáo, hôm qua và hôm nay, do Lm. Athanasiô Nguyễn Quốc Lâm và Phạm Hồng Lam chuyển ngữ, Đà-lạt 2010.

[xviii] THOMAS À KEMPIS, Gương Chúa Giê-su, Nhà Sách Fatima, Sài-gòn 1965, Gẫm về sự chết, Chương XXIII, t.102.

[xix] RATZINGER J., Einfuehrung in das Christentum, t.246.

[xx] RAHNER K., Saemtliche Werke, Christliches Leben, Band 14, Herder Verlag, Freiburg 2006, t.162.

[xxi] BENEDIKT XVI, Bài Giáo Lý thứ 27 về cầu nguyện.

[xxii] RATZINGER J., Einfuehrung in das Christentum, t.248-249.

[xxiii] RAHNER K., Grundkurs des Glaubens, 5. Aufl., Herder Verlag, Freiburg 1976, t.423. Tham khảo bản tiếng Việt với tựa đề Những nền tảng Đức Tin Ki-tô, tập hai: Ki-tô học, do Nguyễn Luật Khoa OFM. biên dịch.

[xxiv] Sách Giáo Lý của Hội Thánh Công Giáo, số.1680-1681.

[xxv] Linh Đạo Mẹ Têrêsa Calcutta, pt. Giuse TV Nhật chuyển ngữ, trong phần nói về Phục Vụ, nguồn: http://www.nguoitinhuu.org/

[xxvi] Sách Giáo Lý của Hội Thánh Công Giáo, số 1689-1690.

[xxvii] THOMAS À KEMPIS, Gương Chúa Giê-su, Nghĩ về sự chết, Chương XXIII t.106.

[xxviii] Sách Giáo Lý của Hội Thánh Công Giáo, số 2448.

[xxix] Trích dẫn bởi KASPER W., Barmherzigkeit, t. 144-145.

bottom of page