top of page

Phần 04:

PHÚC THAY AI KHÁT KHAO NÊN

NGƯỜI CÔNG CHÍNH,

VÌ HỌ SẼ ĐƯỢC THIÊN CHÚA CHO THOẢ LÒNG

BẢN PDF
  • Một vài thuật ngữ.

 

- Công chính.

 

Mối Phúc thứ tư này nói về sự công chính. Đây là một trong những từ ngữ chính yếu. Ở đây, xin thử tìm hiểu chút về từ ngữ này. Theo Ulrich Luz, thì có 3 cách thức giải thích. (1) Công chính có thể liên hệ trực tiếp đến thái độ sống của con người. (2) Công chính là ân sủng và sức mạnh của Thiên Chúa. (3) Công chính được hiểu trong sự kết hiệp giữa hai ý nghĩa trên, vừa là ân sủng và vừa là trách nhiệm.[i]

Với các nhà chú giải Công Giáo, thì có chiều hướng giải thích sự công chính như là thái độ cần có của con người, chỉ về một nhân đức đặc biệt hay chỉ về toàn thể các nhân đức. Theo Martini,[ii] từ ngữ “công chính” chúng ta còn gặp trong câu 10, là Mối Phúc thứ 8: “Phúc thay ai bị bách hại vì sống công chính, vì Nước Trời là của họ”. Hay trong một đoạn khác cũng thuộc Bài Giảng Trên Núi: “Vậy, Thầy bảo cho anh em biết, nếu anh em không ăn ở công chính hơn các kinh sư và người Pha-ri-sêu, thì sẽ chẳng được vào Nước Trời” (Mt 5,20). Còn trong đoạn 6,1 thì Mát-thêu viết như sau: “Khi làm việc lành phúc đức, anh em phải coi chừng, chớ có phô trương cho thiên hạ thấy. Bằng không, anh em sẽ chẳng được Cha của anh em, Đấng ngự trên trời, ban thưởng”. Việc phúc lành ở đây chỉ về những hành động công chính. Cũng ở đoạn 6, chúng ta đọc được câu 33: “Trước hết hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đức công chính của Người, còn tất cả những thứ kia, Người sẽ thêm cho”.

 

Tiếp đến, Martini giải thích rằng, từ ngữ “công chính” được sử dụng trong ba ý nghĩa khác nhau. Đầu tiên từ ngữ này chỉ về “sự công chính của Thiên Chúa”, là lời mời chào ban ơn cứu rỗi cho tất cả mọi người. Ý nghĩa thứ hai của “công chính” chỉ về sự công chính của con người, những điều tốt lành con người làm: Giữ luật lệ, bố thí, một đời sống hợp theo luân lý và đạo đức thánh thiện. Cuối cùng là ý nghĩa “công chính xã hội”, tương quan tốt lành và công bằng giữa con người với nhau. Sau đó, Martini đã đưa ra một hình ảnh rất đẹp. Ba ý nghĩa này nối kết chặt chẽ với nhau như hình ảnh rễ, hoa và trái của một cây: Rễ là sự công chính của Thiên Chúa. Ngài chính là Đấng làm cho chúng ta nên công chính. Ân sủng của Ngài làm cho chúng ta nên thánh thiện. Hoa là những công trình tốt lành của con người hợp với thánh ý của Thiên Chúa. Trái là sự công chính xã hội. Đó là thái độ của tình yêu. Thái độ này không hướng về việc làm thỏa mãn những ước muốn và mục đích cá nhân, mà đặt chúng đàng sau tinh thần sống dấn thân cho phẩm giá của anh chị em nghèo nhất trong xã hội

 

Ý nghĩa nào trong ba ý nghĩa này hợp với Mối Phúc dành cho người đói khát sự công chính của Giê-su nêu lên trong Mát-thêu? Trong bối cảnh của các Mối Phúc, sự đói khát công chính rõ ràng là ý muốn và lòng khát khao về sự công chính trong ý nghĩa theo hình ảnh “rễ”, dù rằng từ ngữ công chính bao hàm cả ý nghĩa theo hình ảnh “hoa” và “trái”. Đó là sự công chính trong tâm tình hướng về Thiên Chúa, là ước vọng có được một cuộc sống tràn đầy ân phúc của Chúa, và nhờ đó cuộc sống luôn tương hợp với thánh ý của Ngài. Ai đói khát sự công chính này, thì sẽ được Cha trên trời làm cho no thỏa. Như vậy, điều mà Martini muốn nhấn mạnh ở đây là tinh thần sống công chính theo thánh ý của Thiên Chúa. Đó là tinh thần chính yếu của những người khao khát sự công chính. Về điều này chúng ta sẽ suy niệm ở phần sau. Giờ đây chúng ta cùng tìm hiểu chút về một từ ngữ khác.

 

         - Đói khát.

 

Từ ngữ “đói khát” cũng tìm thấy nhiều trong Thánh Kinh.[iii] Trong ý nghĩa tượng hình, sự đói khát nêu bật nhu cầu cần thiết của con người. Một ví dụ về sự đói khát này trong Tv 107,6-9:

“Họ kêu lên cùng Chúa,

Người đưa tay kéo họ ra khỏi cảnh gian truân,

dắt họ đi thẳng đường ngay lối

về chốn thành thị để định cư.

Ước chi họ dâng lời cảm tạ vì tình thương của Chúa,

và vì những kỳ công Chúa đã thực hiện cho người trần.

Họng ráo khô, Chúa cho uống phỉ tình,

bụng đói lả, Người cho ăn thoả thích”.

 

Thánh Vịnh gia kể về những người lạc đường và đói khát, không tìm thấy gì để ăn và uống. Thiên Chúa chỉ cho họ đường thẳng, một nơi chốn tốt đẹp, chỗ họ tìm thấy của ăn và nước uống, và làm thỏa mãn cơn đói khát của họ.

 

Còn trong sách Khải Huyền, cũng nêu lên sự đói khát: “Họ sẽ không còn phải đói, phải khát, không còn bị ánh nắng mặt trời thiêu đốt và khí nóng hành hạ nữa. Vì Con Chiên đang ngự ở giữa ngai sẽ chăn dắt và dẫn đưa họ tới nguồn nước trường sinh” (Kh 7,16-17). Ở đây Gio-an cũng nhắc đến sự đói khát của thân xác. Nhưng khi thân xác được no thỏa nhờ Thiên Chúa, thì tất cả những khao khát của họ cũng được thỏa mãn. Tất cả những nhu cầu của con người được đáp ứng và tất cả những khổ đau của thế giới đều phải “chào thua”.

 

  • Suy niệm Mối Phúc khát khao sự Công Chính.

 

Khát khao sự công chính là sự khát khao căn bản và quan trọng của đời người. Mối Phúc này của Chúa Giê-su đã chạm đến biết bao nhiêu tâm hồn thao thức đi tìm chân lý, đi tìm những gì cao cả hơn những điều bình thường trong cuộc sống.

 

- Những tâm hồn khát khao đi tìm sự cao cả.

 

Khao khát công chính là khao khát sự cao cả trong cuộc sống làm người. Khi lật lại những trang sách của lịch sử nhân loại, biết bao người đã lên đường tìm kiếm những điều cao cả hơn. Họ không hài lòng với cuộc sống hiện tại, họ không để cho mình bị ru ngủ bởi những điều chóng qua của cuộc sống. Họ là những con người trông chờ. Trong tâm khảm của họ chất chứa một thao thức, một ao ước hay một khát khao giúp cho đời sống làm người có giá trị hơn. Theo Ratzinger, “Mối Phúc này liên quan tới những ai đang trông chờ, những ai đang tìm kiếm những gì cao cả, công lý thật, tốt lành thật...Những người mà Mối Phúc này diễn tả là những người không hài lòng với những sự vật như chúng là và từ chối để cho lòng thao thức của tâm hồn bị bóp nghẹt, lòng thao thức hướng con người đến những gì cao cả hơn và đặt họ trên hành trình nội tâm để đạt tới Mối Phúc này, đúng như những nhà thông thái từ phương Đông tìm kiếm Đức Giê-su, ngôi sao dẫn đường đến chân lý, đến tình yêu, đến Thiên Chúa. Những người này là những người mà sự nhạy cảm nội tâm giúp họ thấy và nghe được những dấu chỉ tinh tế Thiên Chúa gởi đến trong thế gian, để bẻ gãy chế độ độc tài theo quy ước”.[iv]

 

Đi tìm chân lý, tìm tình yêu và tìm Thiên Chúa là hành trình của những người khao khát những điều cao cả. Không chỉ Ba Vua ngày xưa, mà nếu lật tiếp trang sử nhân loại, chúng ta còn khám phá những vị Thánh đã bước đi trên hành trình này. “Ngay tại điểm này, ai mà không nhớ tới những vị thánh khiêm nhường, mà trong họ, chính Giao Ước cũ mở ra cho Giao Ước mới, và được biến đổi vào trong Giao Ước mới? Họ là Dacaria và Êlisabét, Maria và Giuse, Simêôn và Anna, theo cách thức khác nhau, tất cả những người này chờ đợi sự cứu rỗi cho Ít-ra-en trong sự tỉnh thức nội tâm, và qua lòng đạo đức khiêm nhường của họ, sự chờ đợi và khao khát kiên trì ‘sửa soạn con đường’ cho Đức Chúa phải không? Nhưng chúng ta cũng nghĩ đến Mười Hai Tông đồ - đến những con người (như chúng ta sẽ thấy), xuất thân từ môi trường học thức và xã hội hoàn toàn khác nhau. Họ đã mở tâm hồn ra ngay trong công việc và cuộc sống hằng ngày, để sẵn sàng đáp trả lời mời gọi cho những gì cao cả hơn? Hay chúng ta cũng nghĩ tới lòng say mê sự công chính của Phao-lô, dù lòng say mê sự công chính của ông có sai lạc, nhưng lòng say mê đó vẫn giúp sửa soạn, để cho Phao-lô được Thiên Chúa làm ngã xuống, và qua đó tìm được một nhãn quan mới? Chúng ta có thể tiếp tục luồng tư duy này qua suốt toàn bộ lịch sử. Edith Stein có lần đã nói rằng, bất cứ ai tìm kiếm chân lý cách thành thật và nhiệt tình, thì người đó đang trên con đường đến với Đức Ki-tô. Chính những người này mà các Mối Phúc nói tới, lòng khao khát và đói khát này được chúc phúc vì dẫn con người đến với Thiên Chúa, đến với Đức Ki-tô và vì thế mở thế giới ra cho Triều đại Thiên Chúa”[v], và cho thánh ý của Chúa.

 

- Khao khát thánh ý Chúa.

Ai khát khao sự công chính, thì luôn cầu xin cho Nước Cha trị đến và cho ý Cha được thể hiện. Người khát khao sự công chính yêu mến Thiên Chúa nhiều đến nỗi, anh ta có thể sẵn sàng chịu bách hại, và không sợ hãi trước bất cứ chướng ngại nào. Với anh ta chỉ có một điều duy nhất là, thánh ý Chúa được thể hiện. Tâm tình này của Martini dẫn chúng ta đi đến lời cầu nguyện mà Đức Ki-tô đã dạy chúng ta trong Bài Giảng Trên Núi. Và lời cầu nguyện đó đã trở thành lời cầu nguyện tuyệt hảo nhất. Trong lời cầu nguyện đó có câu: “Xin cho Nước Cha trị đến, ý Cha được thể hiện!” (Mt 6,10). Như vậy, mỗi người Ki-tô hữu chúng ta đều được nhắc nhớ và ý thức, biết luôn “đói khát thánh ý Chúa” và sống trọn vẹn theo thánh ý Ngài.

Trước hết chúng ta thấy rằng, thánh ý của của Thiên Chúa được Đức Ki-tô rao giảng,[vi] như là một điều cần thiết cho những ai muốn bước vào Nước Trời: “Không phải bất cứ ai thưa với Thầy: ‘Lạy Chúa! lạy Chúa!’ là được vào Nước Trời cả đâu! Nhưng chỉ ai thi hành ý muốn của Cha Thầy là Đấng ngự trên trời, mới được vào mà thôi” (Mt 7,21). Như vậy, Đức Ki-tô đã tỏ lộ cho chúng ta biết rằng, khi thánh ý của Cha được thực hiện, thì Nước Trời cũng được hiện diện, và con người có thể bước vào và sống trong Nước Trời. Điều này liên hệ đến toàn bộ cuộc sống của con người, đụng tới suy nghĩ, hành động và cách sống của con người. Đây là yếu tố mang tính cách luân lý trong lời cầu xin: “Xin cho ý Cha được thể hiện”. Với lời cầu xin này, chúng ta cầu xin Chúa kéo chúng ta thật mạnh ra khỏi bản thân chúng ta, vượt trên chính con người đầy giới hạn của chúng ta, để chúng ta có thể trở nên con người tự do cho Chúa và cho thánh ý của Ngài. Ngoài ra, với lời cầu xin này, chúng ta cũng xin Người soi sáng và củng cố ý chí của chúng ta, giúp chúng ta biết ngoan ngoãn trước mọi sự thúc đẩy của ân sủng. Khi chúng ta lấy ý Chúa làm ý mình, lấy hết khả năng ra đón nhận, là ý Chúa đã được thực hiện. Trong ý nghĩa này, giáo phụ Tertulian nói rằng, lời cầu xin này cũng mang ý nghĩa xin Chúa cho ý Chúa được thực hiện trong chúng ta và trên trái đất này. Và lời cầu nguyện cho ý Cha được thể hiện không gì khác hơn là tâm tình xin Chúa giúp chúng ta biết ý thức bước theo Chúa trên con đường giáo huấn của Ngài.

 

Và chúng ta cũng cầu xin Chúa cho chúng ta luôn biết kín múc tinh thần và “nhựa sống” từ thánh ý của Ngài, để nhờ đó chúng ta có thể được cứu rỗi không chỉ khi chúng ta về trời mà ngay lúc chúng ta còn sống trên trái đất này.[vii] Còn theo Grégoire de Nysse thì, khi ra khỏi thánh ý của Thiên Chúa, linh hồn sẽ bị chôn vùi trong tội lỗi, và chính tội lỗi này dẫn linh hồn đến sự chết.[viii] Vì thế, lời cầu nguyện xin ý Cha được thể hiện, trong thực tế diễn tả lời cầu xin Chúa cứu chúng ta khỏi tội lỗi luôn muốn nhấn chìm chúng ta trong đêm đen của cuộc đời. Linh hồn nào đang đau khổ cần kêu lên “xin cho ý Cha được thể hiện”, vì ý của Thiên Chúa chính là “sức khỏe” của con người. Và khi chúng ta cầu nguyện cùng Chúa với tất cả ý thức: “xin cho ý Cha được thể hiện trong con”, chúng ta cần thay đổi cuộc sống của chúng ta, để cuộc sống chúng ta tương hợp hoàn toàn với thánh ý của Thiên Chúa. Qua đó chúng ta có thể ăn năn và kêu cầu Thiên Chúa nâng đỡ chúng ta thoát khỏi cuộc sống trong quá khứ, mà chúng ta đã sống như là nô lệ của tội lỗi, và chúng ta cầu xin Chúa đoái thương tha thứ, và ban cho chúng ta ân sủng, để chúng ta có thể làm cho ý Cha được thể hiện trong cuộc sống của chúng ta.[ix]

“Lời Chúa là ngọn đèn soi cho con bước,

là ánh sáng chỉ đường con đi” (Tv 119,105).

Lời Thánh Vịnh này diễn tả một tinh thần sống của những ai kiếm tìm thánh ý Chúa.[x] Sống theo Lời Chúa, chọn Lời Chúa là ngọn đèn soi cho chúng ta bước, là ánh sáng dẫn lối cho chúng ta đi, đó là chúng ta đang tuân phục và thi hành ý của Cha trên trời.

Như vậy, sống thánh ý Chúa không gì khác hơn là sống theo tinh thần Lời Chúa, tinh thần Tin Mừng, sống theo tinh thần Chúa truyền ban. Thánh Phanxicô thành Assisi đã nói: “Con người có giá trị thế nào là tùy theo hành vi của nó”. Tin Mừng chính là qui luật sống qui định mọi sự ứng xử và dấn thân của chúng ta. Có thế, Lời Chúa, nơi biểu hiện ý Người, mới trở thành lương thực nuôi sống chúng ta. Đó cũng chính là ý nghĩa của đoạn sách Khải Huyền, theo đó tác giả bị yêu cầu phải “nuốt lấy cuốn sách”. Nó sẽ làm cho bụng dạ ông phải cay đắng, nhưng trong miệng ông nó sẽ ngọt ngào như mật ong (x.Kh 10,9).

Ngoài ra, sống thánh ý Chúa là sống tinh thần vâng phục. Nhưng sự vâng phục của Ki-tô hữu không phải là chấp nhận bị tổn thương hay cưỡng bức, mà là tự nguyện đồng ý với kế hoạch của Thiên Chúa và những đòi hỏi của Tin Mừng như một người con hiếu thảo. Vâng phục là chấp nhận bước vào “cuộc chơi” của Thiên Chúa, chấp nhận tiến xa hơn trong mầu nhiệm cứu độ, để cho ý Chúa chiếm lấy cuộc đời mình và kéo mình theo: một sự vâng phục không còn miễn cưỡng như của người nô lệ nữa, nhưng đầy tươi vui của con cái Chúa.

Ngoài ra, tinh thần sống thánh ý Chúa cũng được diễn tả trong tinh thần sống theo luật Chúa truyền dạy, như theo mười điều răn Chúa truyền, và đặc biệt theo điều luật sống công chính, sống tình yêu thương. Chúng ta đọc lại cuộc đối thoại giữa người thanh niên giàu có và Đức Ki-tô: “‘Thưa Thầy, tôi phải làm điều gì tốt để được hưởng sự sống đời đời? Đức Giê-su đáp: ‘Sao anh hỏi tôi về điều tốt? Chỉ có một Đấng tốt lành mà thôi. Nếu anh muốn vào cõi sống, thì hãy giữ các điều răn’. Người ấy hỏi: ‘Điều răn nào?’ Đức Giê-su đáp: ‘Ngươi không được giết người. Ngươi không được ngoại tình. Ngươi không được trộm cắp. Ngươi không được làm chứng gian. Ngươi phải thờ cha kính mẹ, và Ngươi phải yêu đồng loại như yêu chính mình’.” (Mt 19,16-19).

Tinh thần sống theo tình yêu này còn được Đức Ki-tô làm nổi bật trong câu trả lời cho những người thông luật, những người Pha-ri-sêu: “Rồi một người thông luật trong nhóm hỏi Đức Giê-su để thử Người rằng: ‘Thưa Thầy, trong sách Luật Mô-sê, điều răn nào là điều răn trọng nhất?’ Đức Giê-su đáp: ‘Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi. Đó là điều răn quan trọng nhất và điều răn thứ nhất. Còn điều răn thứ hai, cũng giống điều răn ấy, là: ngươi phải yêu người thân cận như chính mình. Tất cả Luật Mô-sê và các sách ngôn sứ đều tuỳ thuộc vào hai điều răn ấy’.” (Mt 22,35-40).

“Yêu Chúa và yêu người thân cận”. Đó là hai mặt của một lề luật mà Đức Ki-tô đã đặt ra cho chúng ta. Không có luật lệ nào lớn hơn luật lệ này cả (x.Mc 12,28-34). Ở đây, theo như thánh Phao-lô, chúng ta đề cập đến tình yêu người thân cận như chính mình. Một cách tự nhiên, mỗi người chúng ta khi được sinh vào cuộc đời, chúng ta đều được cấy vào một tình yêu chính bản thân mình, nghĩa là chúng ta yêu mình, nên chúng ta lo lắng cho cuộc sống của mình sao cho thật tốt, và nếu càng ngày càng tốt hơn, thì càng hay. Vì thế, làm sao để no, làm sao cho an toàn, làm sao cho tốt và làm sao đẹp đây? Đó là những câu hỏi chúng ta ý thức hay vô thức đều đặt ra cho chính mình, và rồi chúng ta “lên đường” để kiếm và tìm những điều cho chính mình được sống và sống dồi dào hơn. Cũng thế, chúng ta cần phải yêu thương người thân cận như mình yêu mình vậy. Đức Ki-tô đòi hỏi chúng ta: yêu thương người thân cận như chính mình (Mc 12,31).

 

Trong Bài Giảng Trên Núi, Đức Ki-tô đã đưa ra một luật vàng của tình yêu: “Vậy tất cả những gì anh em muốn người ta làm cho mình, thì chính anh em cũng hãy làm cho người ta” (Mt 7,12). Chúng ta có thể chuyển tâm tình này vào trong câu mang tính cách phủ định, mà vẫn giữ được ý nghĩa của nó: “Vậy tất cả những gì anh em không muốn người ta làm cho mình, thì chính anh em cũng đừng làm cho người ta”. Và khi sống theo tinh thần của tình yêu, thì chúng ta không chiều theo xác thịt, mà tất cả chúng ta đều sống theo sự chỉ dẫn của Thần Khí Chúa. Khi sống như vậy, con người chúng ta không còn gây ra những thương tích đớn đau từ những “vụ cắn xé nhau”, từ những chuyện âm mưu hãm hại nhau cho thỏa cái bụng xấu xa, cho “đã” cơn giận hờn.

Ngoài ra, chúng ta tìm thấy một cách diễn tả sống theo thánh ý Chúa trong thư của Phao-lô: “Thưa anh em, vì Thiên Chúa thương xót chúng ta, tôi khuyên nhủ anh em hãy hiến dâng thân mình làm của lễ sống động, thánh thiện và đẹp lòng Thiên Chúa. Đó là cách thức xứng hợp để anh em thờ phượng Người. Anh em đừng có rập theo đời này, nhưng hãy cải biến con người anh em bằng cách đổi mới lý trí, hầu có thể nhận ra đâu là ý Thiên Chúa: cái gì là tốt, cái gì đẹp lòng Chúa, cái gì hoàn hảo” (Rm 12,1-2). Ở đây, đầu tiên thánh Phao-lô nhấn mạnh tinh thần cải biến, tinh thần thánh hóa, nghĩa là Ki-tô hữu không còn rập theo những thói đời, mà xin được thánh hóa, được dìm mình vào trong cái chết của Đức Ki-tô, để được mai táng và để được chết với Người: “Chúng ta biết rằng: con người cũ nơi chúng ta đã bị đóng đinh vào thập giá với Đức Ki-tô, như vậy, con người do tội lỗi thống trị đã bị huỷ diệt, để chúng ta không còn làm nô lệ cho tội lỗi nữa. Quả thế, ai đã chết, thì thoát khỏi quyền của tội lỗi” (Rm 6,6-7).

 

Bởi thế, cũng như Người đã được sống lại từ cõi chết nhờ quyền năng vinh hiển của Chúa Cha, thì chúng ta cũng được sống một đời sống mới. Như vậy, qua phép rửa và nhờ ân sủng Chúa, chúng ta được sống trong đời sống mới với lý trí và tinh thần mới. Và trong đời sống mới này, chúng ta được trao cho khả năng, trong mỗi hoàn cảnh của cuộc sống, chúng ta có thể nhận định để tìm kiếm thánh ý của Thiên Chúa, nghĩa là đi tìm những điều tốt, những điều hoàn hảo và những điều đẹp lòng Thiên Chúa. Những điều này được gói gọn trong tinh thần sống tình yêu thương.

Tình yêu cần được hiện thực hóa trong đời sống cụ thể hằng ngày. Và khi sống tinh thần tình yêu, là chúng ta sống thánh ý của Chúa, và chúng ta cũng làm cho đời sống mỗi ngày thêm hoàn thiện, tương quan giữa nhau cũng trở nên tuyệt hảo: “Trên hết mọi đức tính, anh em phải có lòng bác ái: đó là mối dây liên kết tuyệt hảo” (Cl 3,14).

Tóm lại, ai khao khát sự công chính, thì người đó luôn khao khát thánh ý của Thiên Chúa, vì chỉ có Chúa và thánh ý của Chúa mới đưa lại sự công chính thật sự. Ở đây, chúng ta đọc lại vài hàng suy niệm của Luigi Serenthà về Mối Phúc này, mà Martini đã trích dẫn lại: “Phúc cho những ai đói khát việc thực thi thánh ý Chúa. Những người có phúc này nói rằng: Thực phẩm nuôi sống cuộc đời tôi, như thực phẩm làm cho thân xác tôi phát triển, không phải ý riêng của tôi, mà là thánh ý của Thiên Chúa. Tôi đói Thiên Chúa và tôi khát Ngài. Thánh ý của Ngài là điểm quan trọng cho sự tồn tại của tôi. Tôi tin tưởng hoàn toàn vào Chúa. Ngài là niềm vui của tôi. Khi Ngài mặc khải và ban cho tôi điều gì, thì tôi sẽ ăn ngấu nghiến và uống thỏa thuê điều đó, như là một kẻ đói ăn ngấu nghiến chén cơm, và kẻ khát uống thỏa thuê ly nước”.[xi] Thật vậy, ai khát khao và yêu mến điều công chính, người đó tìm thấy Thiên Chúa, tìm thấy thánh ý Ngài và tìm thấy hạnh phúc. Sự công chính luôn mang ý nghĩa kết hợp ý muốn con người với ý muốn Thiên Chúa. Sự công chính không thể tách lìa với lòng can đảm và dấn thân, để thực thi thánh ý Chúa trong cuộc sống, như chính Chúa Giê-su đã sống.

 

  • Hướng nhìn Giê-su, Đấng sống thánh ý của Thiên Chúa.

 

- Lương thực Chúa Giê-su đón nhận là thi hành ý Cha trên trời.

Chúa Giê-su, Người Con yêu dấu, Đấng được sai phái, đã đón nhận thánh ý của Cha.[xii] Với lòng vâng phục tuyệt đối, Người Con đã thực hiện ý của Cha cách hoàn hảo và đem lại ơn cứu độ cho nhân loại. Qua đó, sự bất tuân, bất trung và tội lỗi con người gây ra đã được Ngài mang trên thân mình, và chính Ngài đã hiến dâng chính mình để đền tội cho con người. Nhờ đó trong Ngài, trong Đức Ki-tô, một mầm sống mới, một sự khởi đầu mới, được nảy sinh trong lòng thế giới nhân loại. Từ sự sống mới này, thánh ý của Thiên Chúa cần được tỏ lộ và cần được thực hiện trong một cách thức mới, để góp phần tạo nên trật tự và tự do cho thế giới này.

Theo Martini, ngay trong những bối cảnh đầu tiên, các Tin Mừng đã chỉ ra rằng, Đức Ki-tô hoàn toàn chìm vào trong thánh ý của Cha trên trời. Khi Ngài kêu lên xin cho Ý Cha được thể hiện, Ngài muốn diễn đạt mục đích sâu kín nhất trong sứ mạng của Ngài: làm cho Nước Cha được trị đến bằng cách sống trọn vẹn ý Cha trên trời.[xiii]

Ngay từ những ngày đầu tiên trên hành trình sứ vụ, Đức Ki-tô đã thốt lên rằng : “Lương thực của Thầy là thi hành ý muốn của Đấng đã sai Thầy, và hoàn tất công trình của Người” (Ga 4,34). Điều này có ý nghĩa gì ? “Lương thực” nghĩa là cái làm cho Thầy sống và hoạt động được. Ý muốn của Cha chính là lý do khiến Đức Giê-su đến trần gian và thi hành sứ mạng. Nói cách khác, trở nên một với thánh ý của Cha chính là nguyên lý đời sống của Chúa Ki-tô. Và “nên một với ý Cha” chính là điều cốt lõi của sự hiện diện của Ngài trên trần gian. Cũng trong Phúc Âm thánh Gio-an chúng ta nghe Chúa Giê-su nói rằng: “Vì tôi tự trời mà xuống, không phải để làm theo ý tôi, nhưng để làm theo ý Đấng đã sai tôi. Mà ý của Đấng đã sai tôi là tất cả những kẻ Người đã ban cho tôi, tôi sẽ không để mất một ai, nhưng sẽ cho họ sống lại trong ngày sau hết. Thật vậy, ý của Cha tôi là tất cả những ai thấy người Con và tin vào người Con, thì được sống muôn đời, và tôi sẽ cho họ sống lại trong ngày sau hết” (6,38-40). Như vậy, Chúa Giê-su luôn thi hành ý Cha, và vì thế Ngài không bao giờ để cho những người thuộc về Ngài, thuộc về cộng đoàn của Ngài bị mất đi, mà ngược lại như người Mục Tử nhân lành, Ngài luôn bảo vệ những con chiên của Ngài, và Ngài sẵn sàng hy sinh cho đoàn chiên của Ngài (x.Ga 10,14-15).

 

Hơn nữa, là Mục Tử nhân lành, Ngài luôn sống tâm tình: “Tôi ban cho chúng sự sống đời đời; không bao giờ chúng phải diệt vong và không ai cướp được chúng khỏi tay tôi” (Ga 10,28). Đó cũng chính là thánh ý Cha trên trời. Cha trên trời không ao ước điều gì hơn là tất cả những ai tin vào Đức Ki-tô, đều được gìn giữ và không bao giờ bị diệt vong. Qua Người Con của Cha, họ sẽ tìm được sự sống muôn đời, sự sống vĩnh cửu. Đó là thánh ý cứu rỗi, thánh ý diễn tả một tình yêu tuyệt vời của Thiên Chúa dành cho con người từ ngày đầu tiên và có giá trị cho đến muôn muôn đời.

Ngoài ra, chúng ta cũng thấy rằng, khi sống ý Cha thì Đức Ki-tô kết hiệp với Cha cách đặc biệt. Ngài và Cha là một (x.Ga 10,30). Ở những đoạn khác của Phúc Âm thánh Gio-an, chúng ta đọc được: “Đấng đã sai tôi vẫn ở với tôi; Người không để tôi cô độc, vì tôi hằng làm những điều đẹp ý Người” (Ga 8,29). Một sự kết hiệp nên một của Cha với Con, sự nên một này diễn tả tình yêu tuyệt hảo trong “ngôi nhà Cha Con”, và sau này trong lời cầu nguyện của Chúa Giê-su, Ngài diễn tả tâm tình ao ước mỗi người chúng ta đều được thông hiệp và sống trong ngôi nhà đó, nghĩa là chúng ta cũng được nên một với Ngài và với Cha (x. Ga17,23). Nhưng không chỉ là lời ao ước hay là lời cầu nguyện thông thường, mà Đức Ki-tô còn hiến dâng chính mình để hiện thực điều Ngài ao ước, nghĩa là Ngài tiếp tục sống đúng theo ý của Cha, đặc biệt ngay trong chính hoàn cảnh đau thương nhất.

Khi Người tùng phục ý Cha với tâm tình con thảo, thì chẳng những không làm cho cuộc sống của Người hết bi thảm, mà còn khiến nó bị người đời công kích và bị đưa ra đương đầu với tội lỗi thế gian; tội lỗi này rốt cuộc Người vừa phải gánh lấy vừa phải chiến thắng. Nhìn hoạt cảnh xảy ra ở vườn Giêt-si-ma-ni, ta có thể đo lường được tấn bi kịch đè trên vai Đức Ki-tô nặng tới mức nào: “Lạy Cha, nếu có thể được, xin cho con khỏi phải uống chén này. Tuy vậy, xin đừng theo ý con, mà xin theo ý Cha… Lạy Cha, nếu con cứ phải uống chén này mà không sao tránh khỏi, thì xin vâng ý Cha” (Mt 26,39 và 42). Người bị chấn động không phải do ý muốn của Người và ý muốn của Cha đối chọi nhau, nhưng vì Người kinh hãi khi đứng trước nhiệm vụ mà kế hoạch cứu độ đòi Người phải thi hành. Trước công việc mà mình có bổn phận phải hoàn thành, Con Người ấy đã run sợ nhưng không khước từ thực hiện. 

 

Lời cầu nguyện này của Đức Ki-tô đã được thánh Phao-lô giải thích trong thư gởi tín hữu Do Thái: “Khi còn sống kiếp phàm nhân, Đức Giê-su đã lớn tiếng kêu van khóc lóc mà dâng lời khẩn nguyện nài xin lên Đấng có quyền năng cứu Người khỏi chết. Người đã được nhậm lời, vì có lòng tôn kính. Dầu là Con Thiên Chúa, Người đã phải trải qua nhiều đau khổ mới học được thế nào là vâng phục. Và khi chính bản thân đã tới mức thập toàn, Người trở nên nguồn ơn cứu độ vĩnh cửu cho tất cả những ai tùng phục Người” (Dt 5,7-9). Thánh Phao-lô còn nói: “Vì vậy, khi vào trần gian, Đức Ki-tô nói: Chúa đã không ưa hy lễ và hiến tế, nhưng đã tạo cho con một thân thể. Chúa cũng chẳng thích lễ toàn thiêu và lễ xá tội. Bấy giờ con mới thưa: Lạy Thiên Chúa, này con đây, con đến để thực thi ý Ngài, như Sách Thánh đã chép về con” (Dt 10,5-7). Chúa Giê-su đến để thực thi ý của Cha và Ngài đã hoàn tất tinh thần sống thánh ý của Cha trên Thánh Giá, nơi Ngài kêu lên Ta khát và mọi sự đã hoàn tất.

- Trên Thánh Giá, ý Cha thực sự được hoàn tất.

Khi bắt đầu bị dẫn vào con đường thương khó, người ta đã trao cho Chúa Giê-su rượu pha mộc dược để Chúa uống (x.Mc 15,23), để phần nào giúp Ngài chịu đựng cơn đau đớn. Nhưng Chúa đã từ chối không uống, vì Chúa muốn chịu đựng sự đau đớn với tất cả tâm hồn và lý trí của Ngài. Tại cao điểm của con đường thương khó, nghĩa là trên thập giá, khi Chúa đã mất quá nhiều nước bởi cuộc tra tấn dã man của quân lính, bởi chặng đường dài với thập giá Ngài phải vác trên vai, và cũng trong thời gian nóng bức của buổi trưa, cũng như lúc Chúa chuẩn bị trút hơi thở cuối cùng, Chúa đã thốt lên hai từ “Ta khát”. Sau đó, theo như lệ thường thời đó, người ta đã cho Chúa nếm một thứ rượu có vị chua mà người nghèo thời đó rất hay dùng, để Chúa đỡ khát. Thứ rượu chua đó người ta cũng có thể gọi là giấm.[xiv]

Chúa Giê-su đã đón nhận thứ giấm người ta thấm vào một miếng bọt biển để cho Ngài uống, như Thánh Sử Gio-an ghi lại: “Sau đó, Đức Giê-su biết là mọi sự đã hoàn tất. Và để ứng nghiệm lời Thánh Kinh, Người nói: ‘Ta khát!’ Ở đó, có một bình đầy giấm. Người ta lấy miếng bọt biển có thấm đầy giấm, buộc vào một nhành hương thảo, rồi đưa lên miệng Người. Nhắp xong, Đức Giê-su nói: ‘Thế là đã hoàn tất!’ Rồi Người gục đầu xuống và trao Thần Khí” (Ga 19,28-30). Gio-an đã nêu chi tiết như vậy, còn trong các Thánh Sử khác, chỉ có Lu-ca nhắc lại ngắn gọn: “Lính tráng cũng chế giễu Người. Chúng lại gần, đưa giấm cho Người uống và nói: ‘Nếu ông là vua dân Do Thái thì cứu lấy mình đi!’” (Lc 23,36-37).

 

Như vậy, Gio-an muốn nhấn mạnh đến sự ứng nghiệm của Thánh Kinh trong việc Chúa thốt lên “Ta khát”. Lời ngắn ngủi này liên hệ chặt chẽ đến hai Thánh Vịnh. Thứ Nhất là Thánh Vịnh 22, câu 16 diễn tả tình trạng khát của người Công Chính chịu đau khổ:

“Nghe cổ họng khô ran như ngói,
lưỡi với hàm dính lại cùng nhau,
chốn tử vong Chúa đặt vào”.

 

Thánh Vịnh khác diễn tả:

“Thay vì đồ ăn, chúng trao mật đắng,
con khát nước, lại cho uống giấm chua” (Tv 69,22).

 

Theo Schnackenburg,[xv] cơn khát cơ thể của Chúa Giê-su mang một ý nghĩa sâu xa. Nếu chúng ta nối kết hai lời ngắn ngủi này: “Ta khát” (Ga 19,28) với những lời tiếp theo đó của Chúa: “Thế là đã hoàn tất” (Ga 19,30), chúng ta nhận ra điều chính yếu mà thánh sử Gio-an muốn nói với chúng ta. Trước hết, Gio-an thuật lại trong đoạn 4,34 về việc Chúa Giê-su nói với các môn đệ, khi các ông lo lắng thức ăn cho Thầy: “Lương thực của Thầy là thi hành ý muốn của Đấng đã sai Thầy, và hoàn tất công trình của Người”. Tiếp đến, trong bối cảnh Chúa Giê-su bị bắt giữ, khi Phê-rô ra tay can thiệp, bằng cách lấy gươm chém đứt tai phải của người đầy tớ vị Thượng Tế, Chúa Giê-su đã nói với Phê-rô: “Hãy xỏ gươm vào bao. Chén mà Chúa Cha đã trao cho Thầy, lẽ nào Thầy chẳng uống?” (Ga 18,11). Qua hai đoạn này, sự đói và khát kết hợp lại thành một bức tranh diễn tả về sự khao khát của Chúa. Đó là Ngài luôn ước ao thực hiện và hoàn tất thánh ý của Cha trên trời. Đặc biệt, hình ảnh chén đắng diễn tả mạnh mẽ tinh thần của Chúa Giê-su, Ngài muốn uống chén đắng này - chén khổ đau, đến giọt cuối cùng, vì thế Chúa đã đón nhận giấm chua người ta trao cho Chúa. Đó chính là tinh thần của Chúa Giê-su, người Công Chính đau khổ luôn vâng theo thánh ý của Cha trên trời, bằng cách Ngài sẵn sàng đón nhận giấm chua hay một thứ rượu chua từ loại nho dại, thay vì rượu ngon hảo hạng.

Đức Benedicto XVI[xvi], khi suy niệm lời này, đã hướng đến bài ca vườn nho, mà tiên tri I-sai-a diễn tả trong chương 5. Trong bài ca này, Thiên Chúa quở trách dân Ít-ra-en. Chúa đã chọn một mảnh đất mầu mỡ cho vườn nho, và Ngài đã chăm sóc vườn nho với tất cả công sức, với tất cả tình yêu thương: “Anh ra tay cuốc đất nhặt đá, giống nho quý đem trồng, giữa vườn anh xây một vọng gác, rồi khoét bồn đạp nho” (Is 5,2a), và Thiên Chúa mong ước sẽ nhận được những trái nho ngon ngọt, nhưng thực tế thì khác:“Anh những mong nó sinh trái tốt, nó lại sinh nho dại” (Is 5,2b). Thật là đáng tiếc, vườn nho Ít-ra-en đã không đưa lại những trái nho ngon ngọt của sự công chính, dù được trồng trên mảnh đất của tình yêu. Ngược lại, vườn nho này lại sinh những hoa quả chua, những trái nho dại của con người ích kỷ, con người chỉ loanh quanh luẩn quẩn với chính cái tôi của mình, con người chỉ lo lắng cho bản thân mình, mà chẳng màng tới người khác. Thật vậy, vườn nho đó chỉ đưa lại vị chua chứ không phải vị ngọt. Sự quở trách của Thiên Chúa mà chúng ta được tiên tri I-sai-a nhắc đến được cụ thể hoá trên cây Thánh Giá của Chúa Giê-su. Ngài đã được trao cho giấm chua, thay vì rượu ngon hảo hạng: “Có gì làm hơn được cho vườn nho của tôi, mà tôi đã chẳng làm? Tôi những mong trái tốt, sao nó sinh nho dại?” (Is 5,4). Nhưng Chúa vẫn sẵn sàng đón nhận, bởi vì Ngài yêu thương nhân loại, bởi vì Ngài vâng lời Cha trên trời cách trọn vẹn.

Giấm chua và nho dại đó vẫn còn hiện diện trong Giáo Hội và thế giới chúng ta hôm nay. Thật vậy, không ít lần chúng ta đã đáp lại tình yêu của Chúa không bằng rượu ngon hảo hạng được lấy từ những cây nho trồng trên mảnh đất yêu thương, mà chúng ta lại trao cho Chúa những tấm lòng chua chát với hương vị khổ đau của nho dại, của lòng vị kỷ và ác nhân. “Ta Khát”, lời của Chúa Giê-su vang lên ngày xưa đó, vẫn luôn sống động trong thế giới ngày hôm nay. “Ta khát”, lời này Chúa muốn gởi đến từng người chúng ta, và qua đó Ngài cũng muốn diễn tả sự hiệp thông và tinh thần đoàn kết của Người với chúng ta.

Lời “Ta khát” của Chúa đã được thực hiện qua chính tình yêu hy sinh của Ngài. Một tình yêu dám chết cho người mình yêu. Tình yêu đó Chúa không chỉ dành cho nhân loại chúng ta để cứu rỗi chúng ta, mà tình yêu đó Chúa muốn biểu lộ với Cha trên trời mà Chúa Giê-su luôn hiệp nhất, và sống thực thi đúng theo ý Cha là tha thứ, là tìm kiếm chiên lạc và đưa về đồng cỏ xanh tươi, là cứu độ trong tình yêu vô biên và vô điều kiện. Lời cầu xin “xin cho ý Cha được thể hiện” mang tâm tình cầu xin Chúa tiếp tục yêu thương và cứu độ con người chúng ta. Công trình cứu độ không phải tự chúng ta là con người làm nên hay được tưởng thưởng, mà do chính thánh ý và tình yêu nhưng không của Thiên Chúa được biểu lộ qua chính Đức Ki-tô, Ngôi Hai Thiên Chúa, xuống thế trở nên giống phàm nhân, và hơn nữa trở nên nô lệ và của lễ để đền tội và cứu chuộc con người. Qua đó, chúng ta thấy rằng, thánh ý của Thiên Chúa tràn ngập cuộc đời và sức mạnh cứu độ của Chúa Giê-su. Lương thực Ngài dùng thực sự là thánh ý của Cha. Tiếp bước theo Chúa Giê-su, các môn đệ và mọi tín hữu đều cần chọn lương thực đó.

- Lương thực của mọi người theo bước Chúa Giê-su: thi hành thánh ý Cha trên trời.

 

“Lương thực của Thầy là thi hành ý muốn của Đấng đã sai Thầy, và hoàn tất công trình của Người” (Ga 4,34). Những anh chị em trong Đức Ki-tô và qua Đức Ki-tô đã sống tinh thần vâng lời thánh ý Chúa, có thể giúp chúng ta hiểu được ý nghĩa của tinh thần sống này. Họ là những vị thánh, những người đói khát thánh ý Chúa và đã được no thỏa. Họ đã cảm nhận sự bình an nội tâm sâu xa, và đã trở nên người “giàu có” với rất nhiều ân sủng của Chúa. Một ví dụ điển hình là Mẹ Maria, Mẹ Chúa Giê-su. Mẹ đã nói lời xin vâng trước kế hoạch của Thiên Chúa.

 

Lạy Mẹ Maria, Mẹ muốn thánh ý được thể hiện nơi Mẹ.

Mẹ đã nói rằng: “Xin thực hiện nơi tôi theo Lời của Ngài”.

Mẹ đã đói và khát thánh ý của Cha.

Và Mẹ đã được hoàn toàn no thỏa:

Nghĩa là Mẹ đã trở nên Mẹ của Thiên Chúa,

Mẹ của Giáo Hội, Mẹ của nhân loại.

Xin hãy dạy chúng con tìm được sự ngon ngọt của thức ăn là thánh ý Chúa.

Xin hãy dạy chúng con biết nói với Con của Mẹ rằng: “Lương thực của con là thi hành ý muốn của Đấng đã sai con, và hoàn tất công trình của Người.”

 

Ngoài ra, chúng ta có thể nhìn đến đời sống và tinh thần của các vị thánh Antôn, thánh Martin, thánh I-Nhã thành Loyola, Tê-rê-sa hài đồng, mẹ Tê-rê-sa thành Can-cút-ta, anh Charles de Foucault, cha Afred Delp, mục sư Dietriech Bonhoeffer, mục sư Martin Luther King và còn biết bao nhiêu người khác. Tất cả các vị này đều đói khát thánh ý Chúa, đói khát sự công chính của Thiên Chúa. Cả cuộc đời của họ chỉ muốn sống sao đúng theo ý Chúa và tinh thần tình yêu của Ngài. Linh đạo mà họ để lại cho hậu thế, đều hướng về chính tinh thần nền tảng mà Chúa Giê-su đã dạy: “Xin cho ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời”. Qua các vị thánh và các chứng nhân này, chúng ta cũng thấy họ luôn khao khát Thiên Chúa trong suốt đời sống của họ. Và nhìn trong một phương diện khác, Chúa cũng đói khát họ, và đói khát từng con người một. Vì vậy Ngài đã làm cho đời sống của con người được dồi dào, và Ngài cúi xuống đút từng miếng cơm, trao từng ly nước, để con người được no thỏa. Chúng ta hướng nhìn về các anh chị em tốt lành, các vị thánh, và xin các Ngài cầu bầu, để chúng ta noi theo họ biết sống đúng theo thánh ý Chúa, nhờ đó tình yêu của Chúa được nở hoa thơm trong cuộc đời.

 

- Đón nhận lương thực của Chúa ban là tập thi hành thánh ý của Chúa.

 

Trong hành trình tập thi hành thánh ý của Chúa, Ki-tô hữu luôn có một hành trang quý báu giúp hướng dẫn họ mỗi ngày có thể nhận ra rõ ràng thánh ý của Chúa, và tập sống mỗi ngày cho trọn vẹn hơn. Hành trang đó là lời Kinh Lạy Cha. Martini đã khuyên, khi cầu nguyện với Kinh Lạy Cha, chúng ta cầu nguyện một cách thật chú tâm. Khi cầu nguyện như vậy, thì chúng ta sẽ từ từ ý thức về sự đói khát thánh ý Thiên Chúa. Chúng ta hãy cầu nguyện thật từ từ, Chúng ta suy gẫm từng câu một. Chúng ta hãy biến Kinh Lạy Cha thành lời kinh của chính chúng ta, trở thành một lời cầu xin sâu sắc. Và chúng ta cũng có ước muốn gìn giữ điều mà chúng ta xin.[xvii] Thật vậy, nếu đọc Kinh Lạy Cha với tất cả sự ý thức, với trí hiểu được từng thông điệp trong mỗi lời cầu nguyện của Kinh Lạy Cha, và với tâm hồn thấm nhuần từng tinh thần của mỗi lời cầu nguyện đó, thì đời sống Đức Tin sẽ được biến đổi, canh tân và thăng tiến trên con đường tiến về nhà Cha trên trời.

 

Với sự hướng dẫn của lời Kinh Lạy Cha, người Ki-tô hữu đi vào đời sống thực tế, để sống tinh thần thực thi thánh ý của Thiên Chúa qua những hành động cụ thể, những hành động nêu bật tinh thần làm no thỏa cơn đói khát thánh ý Chúa. Cụ thể hơn, thực thi thánh ý Chúa qua một sự hy sinh nhỏ bé và đơn sơ, từ bỏ những thói quen và ý muốn của bản thân, không mua sắm và hưởng thụ những vật dụng đắt tiền cho bản thân mình, mà dành số tiền đó để chia sẻ và giúp đỡ những người túng thiếu. Hành động này có thể trở thành dấu hiệu của sự đói khát thánh ý Thiên Chúa của chúng ta. Trong đời sống Phụng Vụ, thời gian mùa Chay nhắc nhớ chúng ta rằng, thật là tốt khi chúng ta ăn chay và sám hối, để phần nào ý thức và trong tinh thần đón nhận cơn đói thức ăn và cơn khát nước uống. Đó không chỉ là một dấu chỉ bề ngoài, mà còn mang một dấu ấn sâu xa, khi chúng ta nội tâm hoá hành động bên ngoài đó. Khi ăn chay sám hối, chúng ta cũng ý thức rằng có rất nhiều anh chị em trên thế giới này đang đói khát thực sự, không có một miếng cơm để ăn và ly nước lạnh để uống.

Vì thế, những người nghèo khó và bần cùng đang chờ đợi những anh chị em khác chia sẻ cho họ một chút lòng từ tâm nhân ái, giúp cho những người bất hạnh và nghèo khó được no nê và thoả mãn cơn đói khát. Những hành động nhân ái và yêu thương đó là sự dấn thân chống lại sự nghèo đói trên trái đất của chúng ta. Những hành động đó tương hợp hoàn toàn với lời của Đức Ki-tô được tỏ lộ rõ ràng: Phúc thay ai khát khao nên người công chính, vì họ sẽ được Thiên Chúa cho thỏa lòng, cũng như tương hợp với Mối Phúc kế tiếp: Phúc thay ai xót thương người, vì họ sẽ được Thiên Chúa xót thương.

 

[i] X. LUZ U., Das Evangelium nach Matthaeus, 1.Teilband, t.209-210.

[ii] X. MARTINI C.M., Selig seid ihr!, t.54-56.

[iii] X. MARTINI C.M., Selig seid ihr!, t.56-57.

[iv] RATZINGER J., Benedikt XVI, Jesus von Nazareth I, t.121-122.

[v] RATZINGER J., Benedikt XVI, Jesus von Nazareth I, t.122.

[vi] X. NGUYỄN Ngọc Thế SJ, Lời Kinh Cha Mẹ dạy, t.94-96.

[vii] X. TERTULIAN, trong HAMMAN A. G., Le notre Pére dans l’église ancienne, Les Editions Franciscaines, Paris 1995, t.31.

[viii] X. GREGOIRE de Nysse, Homélie 4, trong HAMMAN A. G., Le notre Pére dans l’église ancienne,  t.94.

[ix] Nt., t.95.

[x] X. NGUYỄN Ngọc Thế SJ, Lời Kinh Cha Mẹ dạy, t.100-104.

[xi] X. MARTINI C.M., Selig seid ihr!, t.58-59.

[xii] X. NGUYỄN Ngọc Thế SJ, Lời Kinh Cha Mẹ dạy, t.90-94.

[xiii] MARTINI C.M., Ne méprisez pas la Parole, Bayard, Paris 2007, t.180.

[xiv] RATZINGER J., Benedikt XVI, Jesus von Nazareth II, t.241.

[xv] X. SCHNACKENBURG R., Das Johannesevangelium, III.Teil, Herder Verlag, Freiburg 1975, t.330-331.

[xvi] X. RATZINGER J., Benedikt XVI, Jesus von Nazareth II, t.242.

[xvii] X. MARTINI C.M., Selig seid ihr!, t.60-61.

bottom of page